Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Hồ Xuân Hương » Thơ truyền tụng ☆☆☆☆☆ 3 5.00. Thể thơ: Thất ngôn bát cú Thời kỳ: Nguyễn 2 người thích: , Từ khoá: trăng (220) thơ trào phúng (173) Chia sẻ trên Facebook; Trả lời; In bài thơ; Một số bài cùng từ khoá - Đánh đu (Hồ Xuân Hương)
Càng sau, vấn đề nghệ thuật thơ bà nghiên cứu nhiều Trên thực tế, Lê Tâm người phong cho Hồ Xuân Hương danh hiệu "Bà chúa thơ Nôm" Thân thi ca Hồ Xn Hương - Bà chúa thơ Nơm Sau đó, lực cảm thụ tinh tế, hiểu biết sâu sắc văn hóa trung đại kinh nghiệm sáng tạo thơ
Cũng tiếng cười Hồ Xuân Hương ấy, lại là bão tố thổi bay những mặt nạ mạo danh anh hùng quân tử, xé toạc, phanh phui, lột trần những tấm áo đạo đức giả để trơ ra những cái gì là hèn kém, thô lậu, bỉ ổi của thế giới những kẻ đáng lên án trong xã hội phong kiến hủ lậu ngày xưa.
Từ bé, Hiếu rất nghịch ngợm, hay trêu chọc bạn bè. Lớn lên, ông rất thích đọc thơ văn trào phúng của các nhà thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… Với năng khiếu bẩm sinh và tự trau dồi kiến thức, làm thơ khôi hài, châm biếm, dần dần ông nổi tiếng khắp
Phong Cách Thơ Hồ Xuân Hương, Phong Cách Thơ Của Hồ Nét độc đáo và khác biệt tốt nhất vào thơ Hồ Xuân Hương là giọng điệu trào phúng. cũng có thể nói, trào phúng là thẩm mỹ và nghệ thuật rất dị Hit.edu.vn 4 phút trước 584 Like
Nét độc đáo nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là giọng điệu mỉa mai, trào phúng. Có thể nói, trào phúng là nghệ thuật độc đáo trong thơ Hồ Xuân Hương. Giọng điệu này được thể hiện khi nữ sĩ phê phán, đả kích giai cấp phong kiến thống trị.
E1rx. Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là một cái tên vô cùng đặc biệt trong làng thơ văn học Việt Nam. Không chỉ cho ra đời những bài thơ mang thương hiệu riêng của cá nhân bà mà thơ Hồ Xuân Hương còn để lại bài học vô cùng đắt giá cho thế hệ mai sau. Các tác phẩm giới thiệu trong sách giáo khoa chỉ là một phần nhỏ bé so với số lượng thơ đồ sộ của bà. THECOTH sẽ tổng hợp những bài thơ đặc sắc nhất của bà trong bài viết dưới đây. Đôi nét về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương được mệnh danh là "Bà chúa thơ nôm" với rất nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng. Sự nghiệp văn chương của bà rất thành công nhưng cuộc đời lại không gặp nhiều may mắn. Tuy vậy bà không bi quan mà lại lấy những nỗi đau ấy để làm động lực cho các sáng tác của mình. Chân dung nhà thơ Hồ Xuân Hương Tiểu sử Hồ Xuân Hương sinh năm 1772 mất năm 1822. Quê quán ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Bà có tên thật là Hồ Phi Mai hay còn có nghĩa là Hoa mai bay trên hồ. Thuở nhỏ, Hồ Xuân Hương đã nổi tiếng chăm chỉ, thông minh và làm thơ rất hay. Lớn lên, bà rất xinh đẹp, tính tình nghệ sĩ, quen biết rất rộng rãi nhưng cuộc đời và tình duyên của bà khá lận đận và gặp nhiều bất hạnh hai lần lấy chồng nhưng đề là lẽ, để đến cuối cùng vẫn sống một mình, cô độc. Sự nghiệp sáng tác Hồ Xuân Hương từng được mệnh danh là “Bà Chúa Thơ Nôm”.Sáng tác của Hồ Xuân Hương gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Theo giới nghiên cứu, hiện có khoảng trên dưới 40 bài thơ Nôm tương truyền là của Hồ Xuân Hương. Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là hiện tượng rất độc đáo nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng, đến ngôn ngữ, hình tượng. Tác phẩm của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là những bài thơ viết bằng chữ nôm, theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, thất ngôn tứ tuyệt. Một số tác phẩm thơ nôm của bà Bà Lang Khóc Chồng, Bạch Đằng Giang Tạm Biệt, Bài Ca Theo Điệu Xuân Đình Lan, Bánh Trôi Nước, Bọn Đồ Dốt, Cái Quạt, Cảnh Làm Lẽ, Cái Quạt Giấy 1, Cái Quạt Giấy 2... Thơ của Hồ Xuân Hương vừa thanh vừa tục, chủ yếu viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam, về thói hư tật xấu của nhà sư, thầy đồ thời phong kiến. Tuyển tập những bài thơ Hồ Xuân Hương hay nhất, "sống" mãi cùng thời gian Sau đây, THECOTH xin tổng hợp lại tuyển tập những bài thơ Hồ Xuân Hương hay nhất, "sống" mãi cùng thời gian. Các bạn choa sẻ nhé ! 1. Bánh trôi nước Tuyển tập thơ hay nhất của Bà chúa thơ Nôm Thân em vừa trắng, lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non. Lớn nhỏ mặc dù tay kẻ nặn, Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Bài thơ Bánh trôi nước đã được giới thiệu trong sách giáo khoa với 4 câu thơ rất ngắn gọn, dễ nhớ. Ý nghĩa của nó chính là nói lên thân phận của chính nhà thơ và rộng ra là thân phận của người phụ nữ ngày xưa. Họ không được quyết định số phận của mình, trôi nổi tùy thuộc vào người khác. Nhưng trên hết đó chính là tấm lòng son của họ vẫn được giữ gìn trong sáng không để bị vấy bẩn. 2. Vịnh cái quạt Một lỗ xâu xâu mới cũng vừa Duyên em dính dán tự ngàn xưa Chành ra ba góc da còn thiếu Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa Mát mặt anh hùng khi tắt gió Che đầu quân tử lúc sa mưa Nâng niu ướm hỏi người trong trướng “Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?” Thơ phồn thực phản kháng trong Hồ Xuân Hương Đã có rất nhiều ý kiến trái chiều về bà thơ Vịnh cái quạt của Xuân Hương. Đại ý của bài thơ theo tiêu đề là miêu tả cái quạt với chức năng như che nắng, che mưa và để quạt mát. Nhưng có lẽ sâu xa hơn là nhà thơ đang nói về người phụ nữ. Nhưng bằng bút pháp tài tình của mình, tác phẩm không hề có tính thô tục mà đề cao đến sự chăm chỉ tài tình của người làm ra chiếc quạt. Một sản phẩm giúp con người được mát mẻ và luôn giữ trong người như báu vật. Dù là nghĩa như thế nào thì chúng ta hãy cứ cảm nhận nó theo nghĩa đẹp nhất mà ta hiểu. 3. Lấy Chồng Chung Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,Chém cha cái kiếp lấy chồng chừng mười hoạ hay chăng chớ,Một tháng đôi lần có cũng đấm ăn xôi xôi lại hỏng,Cầm bằng làm mướn mướn không này ví biết dường này nhỉ,Thời trước thôi đành ở vậy xong. Bài thơ Lấy Chồng Chung tác giả nói về cảnh lấy chồng chung. Đầu thơ nói về kẻ đắp chăn kẻ lạnh lùng, chán cái cảnh chồng chung, năm ở mười thì hay chăng chớ, một tháng vài lẫn có cũng như không. Bài thơ còn viết sự cam chịu cố đấm ăn xôi nhưng lại hỏng, có bằng làm mướn mướn không công. 4. Cảnh thu Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa, Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ, Xanh ôm cổ thụ tròn xoe tán, Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ. *** Bầu dốc giang sơn say chấp rượu. Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ. Ơ hay, cánh cương ưa người nhỉ, Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ. Bài thơ hay trong tuyển tập thơ Hồ Xuân Hương Nội dung của bài thơ là một bức tranh về mùa thu. Với những hình ảnh gần gũi thân thuộc của mùa thu như hạt mưa, sông rộng dài, cây cổ thụ. Nhưng đó là một cảnh thu tiêu sơ, trong một ngày đượm buồn mà mưa không ngừng rơi, từng giọt, từng giọt đổ xuống từ tàu lá chuối. May mắn, nhà thơ vẫn điểm vào khung cảnh ấy một màu xanh của cây cổ thụ giúp bức tranh có thêm phần hồn của nó. Bên cạnh đó là cảnh người say chếnh choáng. Dù bầu rượu đã hết, dù tửu lượng không còn nữa nhưng vẫn muốn uống thêm một chén rượu sầu. Người say có lẽ không phải vì rượu mà vì cảnh giang sơn quá đẹp, quá buồn. Tác giả bằng thủ pháp nghệ thuật của mình vẽ nên bức tranh có cảnh vật và con người hòa quyện vào nhau. 5. Đánh Đu Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,Trai co gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa mảnh quần hồng bay phấp phới,Hai hàng chân ngọc duỗi song xuân đã biết xuân chăng nhổ đi rồi, lỗ bỏ không! Đánh đu’ cho thấy tính sáng tạo trong thi ca của Bà chúa thơ Nôm’. Ngôn từ nhất khí, liền mạch. Giọng thơ hồn nhiên, hóm hỉnh. Một cách nhìn sắc sảo, yêu đời. Một cách cảm rất tài hoa đầy tính nhân văn. Bài thơ Đánh đu’ làm sống lại trong lòng ta một nét đẹp lễ hội dân gian mùa xuân đáng yêu vô cùng. 6. Thơ tự tình Tiếng gà xao xác gáy trên vòm Oán hận trông ra khắp mọi chòm Mõ thảm không khua mà cũng cốc Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ Sau hận vì duyên để mõm mòm Tài tử văn nhân ai đó tá Thân này đâu đã chịu già tom. Thơ có rất nhiều ẩn ý Mở đầu bài thơ là không gianh bao la, tĩnh mịc được khuấy động bằng tiếng gà gáy “văng vẳng” trên bom thuyền từ xa đưa tới. Tác giả đã lấy tiếng gà để diễn tả cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài. Đồng thời nói lên nỗi khổ của người phụ nữ thao thức suốt canh dài để canh trường. Đó là nỗi oán hận mà Hồ Xuân Hương đã sử dụng các hình ảnh mõ thảm, chuông sầu tủi cho nỗi tủi của riêng mình lẻ bóng chăn đơn. Nỗi buồn ấy lan tỏa “khắp mọi chòm”, như kéo dài theo thời gian của những đêm dài. Nghệ thuật nhà thơ sử dụng ở đây còn là nghệ thuật đối lập “Trước nghe” đối với “sau giận”, “tiếng” hô ứng với “duyên”; “rầu rĩ” là tâm trạng đối với “mõm mòm” . Ý nghĩa của nó có nghĩa là người phụ nữ đã quá lứa lỡ thì không còn ai để ý nữa. Nhưng Hồ Xuân Hương đâu chịu thua thiệt mà vẫn mạnh mẽ khẳng định “thân này đâu đã chịu gia tom”. Dù buồn rầu, đau khổ và cảm thán về số phận của phụ nữ, cầu mong hạnh phúc và tình yêu nhưng vẫn giữ phẩm chất quý giá. 7. Tự tình 2 “Canh khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan với nước non. Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn. Xiên ngang mặt đất rêu từng đám, Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn. Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con !”. Nhiều vấn đề trong thơ Hồ Xuân Hương Trong Tự tình của Hồ Xuân HƯơng có 3 bài, bài Tự tình 1 và 2 là hai bài ấn tượng nhất. Trong Tự tình 2 tác giả cũng mở đầu không gian thời gian là đêm khuya với tiếng trống đánh điểm canh giúp xua tan đi không gian tĩnh lặng. Điểm nhấn ấn tượng nhất là từ Trơ tác giả dùng từ trơ để nói đến hình ảnh người phụ nữ chai đi, mất hết cảm giác, đau buồn nhiều nỗi, nay nét mặt thành ra trơ đi trước cảnh vật, trước cuộc đời. Thân phận người phụ nữ có được một chút tình cảm bé con con mà cũng phải chia sẻ với người khác. 8. CHÙA SÀI SƠN Khen thay con tạo khéo khôn phàmMột đố giương ra biết mấy ngàmTriền đá cỏ leo sờ rậm rạpLạch khe nước rỉ mó lam nhamMột sư đầu trọc ngồi khua mõHai tiểu lưng tròn đứng giữ amĐến nơi mới biết rằng Thánh HoáChồn chân mỏi gối hãy còn ham. Bài thơ Chùa Sài Sơn tác giả viết về chùa Sài Sơn. Đầu thơ là lời khen thay sự khôn khéo bội phần, khung cảnh tiền đá cỏ leo rậm rạp, khe nước rỉ tai lam nham, một sư đầu trọc đang khua mõ, bên cạnh hai tiêu lung tròn đứng giữ am. Cuối thơ là khi đến gần nơi mới biết rằng Thành Hóa, chồn chân mỗi gối lại còn ham. 9. Hỏi Trăng Một trái trăng thu chín mõm mòm,Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,Ngoài khép đôi cung cánh vẫn mặt kẻ trần đua xói móc,Ngứa gan thằng Cuội đứng lom người bẻ quế rằng ai đó,Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm. Câu 1 và 2 tác giả giới thiệu hình ảnh và màu sắc đặc biệt của vầng trăng Vầng trăng bấy giờ là một quả trăng, chín muồi lâu là một khối tròn có cây quế đỏ, đỏ phát ớn. Câu 3,4,5,6 tác giả đi miêu tả những chi tiết của vầng trăng tròn dẹt, méo, ... Hai câu cuối Ở nơi đó, có một người đẹp như Hằng Nga vẫn còn đang mong mỏi, đợi chờ . "Hỏi trăng" của Hồ Xuân Hương 10. Canh Khuya Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,Trơ cái hồng nhan mấy nước rượu hương đưa say lại tỉnh,Vầng trăng bóng xế khuyết chưa ngang mặt đất rêu từng đám,Đâm toạc chân mây đá mấy nỗi xuân đi xuân lại lại,Mảnh tình son trẻ tí con con. THE COTH - Top sản phẩm bán chạy -31% Kích thướt S M L XL 2XL -31% Kích thướt S M L XL 2XL -31% Kích thướt S M L XL 2XL -31% Kích thướt S M L XL 2XL -31% Kích thướt S M L XL 2XL -31% Kích thướt S M L XL 2XL Bài thơ Canh Khuya của Hồ Xuân Hương đã cho chúng ta thấy phong cách thơ mới mẻ và độc đáo của bà. Qua bài thơ chúng ta thấu hiểu nỗi tâm tư của bà trước dòng chảy của thời gian đồng thời bộc lộ niềm lạc quan, khát khao được hạnh phúc cháy bỏng của bà. 11. Vấn nguyệt Trải mấy thu nay vẫn hãy còn, Cớ sao khi khuyết lại khi tròn? Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi? Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con? Đêm tối cớ sao soi gác tía? Ngày xanh còn thẹn mấy vầng tròn. Năm canh lơ lửng chờ ai đó? Hay có tình riêng mấy nước non? Thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương Nghệ thuật tài tình ở bài thơ Vấn nguyệt đó chính là một loạt các câu hỏi được đặt ra. Tâm trạng của một cô gái mới biết yêu, hỏi con Bạch Thổ, hỏi chị Hằng Nga, hỏi đêm tối, hỏi người có chờ đợi cô hay không. Một cảm xúc mơ hồ về tình yêu mà không chắc người đó có đáp lại hay không. 12. Đánh Cờ Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,ốt đèn lên đánh cuộc cờ rằng đấu trí mà chơi,Cấm ngoại thuỷ không ai được tướng sĩ dàn ra cho hết,ể đôi ta quyết liệt một thiếp trắng, quân chàng đen,Hai quân ấy chơi nhau đà đã mới vào chàng liền nhảy ngựa,Thiếp vội vàng vén phứa tịnh xe hà, chàng gác hai bên,Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh lừa thiếp đương khi bất ý,em tốt đầu dú dí vô cung,Thiếp đang mắc nước xe lồng,Nước pháo đã nổ đùng ra bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu,Thua thì thua quyết níu lấy vui nước nước non non,Khi buồn lại giở bàn son quân ngà. Đánh Cờ là một thi phẩm hay và giàu tình cảm sâu sắc của nhà thơ Hồ Xuân Hương. Bà là một nhà thơ được nhiều người ngưỡng mộ, ý tưởng trong thơ cũng rất táo bạo, dù là điều cấm kị đối với lễ giáo đương thời. 13. Động Hương tích Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm, Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom. Người quen cõi Phật chen chân xọc, Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm. Giọt nước hữu tình rơi thánh thót, Con thuyền vô trạo cúi lom khom. Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại, Rõ khéo trời già đến dở dom. Động Hương Tích, một thắng cảnh đẹp của đất nước Bài thơ Hồ Xuân Hương nói về địa danh Động Hương tích của Việt Nam. Ngày nay gọi là chùa Hương, thuộc huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, từ ngày 1-8-2008 sáp nhập vào địa bàn thành phố Hà Nội. Mỗi năm vào dịp mùa xuân chùa lại đón rất nhiều lượt du khách bốn phương về trẩy hội. Trong dòng người tấp nập ấy nhờ thơ đã miêu tả lại khung cảnh ấy nhưng với cảnh chen lấn chân xọc, mắt dòm của quá nhiều người. 14. Lỡm Học Trò Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ Lại đây cho chị dạy làm thơ Ong non ngứa nọc châm hoa rữa Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa. Bài thơ Lỡm Học Trò tác giả viết dạy học trò làm thơ. Đầu thơ hỏi đi đâu thế cái lũ ngẩn ngơ, lại đây chị dạy cho lối làm thơ, bài thơ mượn hình ảnh con ong non ngừa lợi châm hoa rữa, con dê bé ngứa sừng húc giậu thưa. 15. ĐỀ NHỊ MĨ NHÂN ĐỒ Ấy bao nhiêu tuổi hỡi cô mìnhChị cũng xinh mà em cũng xinhTrăm vẻ như in tờ giấy trắngNgàn năm còn mãi cái xuân xanhPhiếu mai chăng dám đường kia nọBồ liễu thôi đành phận mỏng manhCó một thú vui sao chẳng vẽTrách người thợ ấy khéo vô tình Bài thơ Đề Nhị Mỹ Nhân Đồ tác giả viết về hai chị em xinh xắn. Đầu thơ hỏi hỡi cô mình bao tuổi, chị cũng xinh mà em cũng không kém, trăm năm như tờ giấy trắng và ngàn năm còn mãi cái xuân xanh. Phiếu mai, cũng đọc là Xiếu mai, có nghĩa quả mai rụng, là tên bài “Phiếu hữu mai” trong Kinh Thi, nội dung nói cây mai đã rụng phần lớn quả, nhưng cũng vẫn còn quả trên cây, ám chỉ người con gái đã lớn tuổi song vẫn còn kịp lấy chồng. Hình ảnh Hồ Xuân Hương hiện lên trong bài thơ 16. Vịnh Quả Mít Thân em như quả mít trên cây,Da nó xù xì múi nó tử có yêu xin đóng cọc,Đừng mân mó nữa nhựa ra tay. Vịnh Quả Mít là một bài thơ của Hồ Xuân Hương được đánh giá hay đặc sắc. Nó có phần ngôn từ dân dã nhưng lại vô cùng thâm thúy về ý thơ. Và cái tục tĩu hay thanh cao cũng chính là do người nghe ra cả mà thôi. Đây là một thi phẩm được đông đảo bạn ddcj yêu thích. 17. Mời trầu Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi Có phải duyên nhau thì thắm lại Đừng xanh như lá, bạc như vôi. Mời trầu chỉ có 4 câu thơ nhưng lại là nỗi niềm của người phụ nữ trăn trở về cuộc đời của mình. Miếng trầu là thể hiện truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam, mời mọi người ăn vào cho đỏ. Nó thường xuất hiện trong đám cưới với ý nghĩa chúc cho vợ chồng luôn hạnh phúc. Nhà thơ cũng khao khát một hạnh phúc như vây. Miếng trầu cô mới quyệt xong còn tươi lắm, mời mọi người hãy ăn nhanh khi nó còn tươi, để tình thắm lại chứ đừng xanh như lá, bạc như vôi. Nhưng nhà thơ cũng khẳng định chỉ có duyên thì mới thắm lại được, chứ vô duyên thì gặp nhau mãi cũng chỉ là vô duyên mà thôi. Mời trầu - một trong những bài thơ nổi tiếng của Hồ Xuân Hương 18. Họa Nhân Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu,Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn,Sương pha khói biếc rộn thêm thơ trước viện, nhà khoe gió,Đồng vọng bên tai, địch thét đâu,Ướm hỏi trăng già khe khắc bấy,Trêu nhau chi những sợi cơ cầu. Theo TS. Phạm Trọng Chánh, bài thơ này được Hồ Xuân Hương viết khi bị mẹ cậy người mai mối gả cho thầy lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nhân có người về Hà Tĩnh. Hồ Xuân Hương gửi bài thơ này. Cũng theo ông, thì bài “Ký mộng” của Nguyễn Du là để đáp lại bài thơ này. 19. Đá Ông Bà Chồng Khéo khéo bày trò tạo hoá côngÔng Chồng đã vậy lại Bà ChồngTầng trên tuyết điểm phơ đầu bạcThớt dưới sương pha đượm má hồngGan nghĩa dãi ra cùng chị NguyệtKhối tình cọ mãi với non sôngĐá kia còn biết xuân già giặnChả trách người ta lúc trẻ trung. Qua bài thơ nữ sĩ hiện lên chẳng những là nữ sĩ tạo hình mà còn tạo tình nữa vừa kỳ công và cũng vừa tuyệt thú. Bà chúa thơ Nôm đã biến cảm xúc mùa xuân, cái tưởng chừng khó nắm bắt trở thành vật thể gồ ghề góc cạnh, dày dày mảng khối, tươi tắn nhiều sắc màu Tình xuân được hữu thể hóa, Có sớm ư? Thời lại có trưa... Vậy mới phơi phới, ngây ngất và hoan lạc. Xót thương thay cho những ai, vì lý do thiên tạo hoặc nhân tạo, không được thụ hưởng hạnh phúc tốt vời của đời sống thế trần, bởi Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu! Suy ngẫm trong thơ Nôm 20. Duyên Kỳ Ngộ Nghìn dặm có duyên sự cũng thành, Xin đừng lo lắng hết xuân xanh. Tấc gang tay họa thơ không dứt, Gần gụi cung dương lá vẫn lành. Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện, Trống mang dùi cắp đã phanh phanh. Tuy không thả lá trôi dòng ngự, Một tác phẩm khác của Hồ Xuân Hương cũng nói về duyên phận của người phụ nữ. Trong đại ý bài thơ là đừng nên lo lắng về tình duyên, nếu có duyên thì ắt sẽ đến. Nghìn năm duyên cũng sẽ thành. Nếu là người yêu thơ văn thì cùng nhau với bạn bè họa đàm thi ca, dù có gần gũi với nam nhân thì vẫn giữ tấm lòng trong sạch. Tác giả còn khéo léo vận dụng sự tích Vu Hựu, người đời Đường Hy Tông bắt được một chiếc lá đỏ từ dòng ngự câu trong cung trôi ra. Duyên may về sau Vu Hựu lấy Hàn Thị và nhận ra nhau qua chiếc lá đỏ. Ý miêu tả chiếc lá thắm giỏi làm mai mối. 21. CHẾ SƯ Chẳng phải Ngô chẳng phải taĐầu thì trọc lốc áo không tàOản dâng trước mặt dăm ba phẩmVãi nấp sau lưng sáu bảy bàKhi cảnh khi tiu khi chũm choẹGiọng hì giọng hỉ giọng hi haTu lâu có nhẽ lên sư cụNgất nghểu toà sen nọ đó mà. Bài thơ Chế Sư tác giả viết về thây tu lâu năm. Đầu thơ chó thấy chẳng phải Ngô cũng chẳng phải ta, áo không tà đầu lại trọc lóc, ngay trước mặt dăm ba phẩm, vãi phía sau lưng sáu bảy tà. Bài thơ còn nói về khung cảnh khi tiu khi chũm chọe, giọng thì giọng hỉ giọng hi. 22. Thương ôi phận gái Hình ảnh Xuân Hương hiện lên trong mỗi bài thơ Thương ôi phận gái cũng là chồng Ghét bỏ nhau chi hỡi Nguyệt ông Rồng tắm ao tù từng phận tủi Mưa gieo xuống giếng uổng lòng mong Xót thân hoa nở song lầm cát Thẹn mặt trần ai đứng giữa vòng Âu hẳn tiền nhân sao đấy tá Thôi đành một kiếp thế cho xong. Bài thơ than thân trách phận của người con gái. Đã cùng là con gái, cùng có chồng thì đừng ghét bỏ nhau làm gì mà hãy nương tựa vào nhau, giúp đỡ nhau. Người phụ nữ như hạt mưa sa, rơi vào đài cát thì được hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý, chẳng may rơi vào chỗ bùn nhơ thì cũng phải chịu số phận cực khổ. Dù như thế nào thì cũng đành cam chịu số phận, chẳng thể nào chống lại được. 23. CHƠI KHÁN ĐÀI Êm ái chiều xuân tới Khán ĐàiLâng lâng chẳng bợn chút trần aiBốn mùa triêu mộ, chuông gầm sóngMột vũng tang thương, nước lộn trờiBể ái ngàn trùng khôn tát cạnNguồn ân trăm trượng dễ khơi vơiNào là cực lạc là đâu tá?Cực lạc là đây, chín rõ mười. Bài thơ Chơi Khán Đài tác giả viết về một chiều xuân chơi Khán Đài. Đầu thơ về một buổi chiều xuân êm ái chơi Khán Đài, tâm hồn chẳng bận chút trần ai, bốn mùa chiệu mộ tiếng gầm sống, sự tang thương nước với trời. Nội dung thơ còn viết về bể sở nghìn trùng tát cạn, trăm trượng nguồn âm dễ khơi vơi. 24. HANG CẮC CỚ Trời đất sinh ra đá một chòmNứt làm đôi mảnh hổng hòm homKẽ hầm rêu mọc trơ toen hoẻnLuồng gió thông reo vỗ phập phòmGiọt nước hữu tình rơi lõm bõmCon đường vô ngạn tối om omKhen ai đẽo đá tài xuyên tạcKhéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm Đây có thể xem là bài thơ tiêu biểu cho bản sắc thơ Hồ Xuân Hương, ở đó hội tụ nhiều nét tinh hoa trong phong cách thơ bà. Một tình yêu thiên nhiên giữ dội trong lối biểu hiện, dục tính trong tài hoa miêu tả, ỡm ờ mà khiêu khích người khác giới, lập lờ hai mặt trong nỗi khát khao tình dục ... Hang Cắc Cớ - một địa điểm du lịch đẹp 25. Ốc Nhồi Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồiĐêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi,Quân tử có thương thì bóc yếmXin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi. Thơ Hồ Xuân Hương phần lớn nói về thân phận người phụ nữ. Trong những câu thơ của bà người ta nhận thấy đặc điểm “thanh thanh tục tục” mà chỉ có bà chúa thơ Nôm mới dám sử dụng. Bà thường dùng những hình ảnh trần trụi như bánh trôi nước vừa trắng lại vừa tròn, hay bài cái quạt nhưng ẩn ý bên trong thì lại khác. Ai hiểu được nhà thơ thì mới cảm nhận được cái hay, cái mỉa mai, cái đau khổ của kiếp đàn bà. Hi vọng Thecoth đã giới thiệu cho bạn top 99 bài thơ hay nhất của nữ sĩ mà bạn yêu văn học yêu thích. Bạn hãy đọc và tìm cảm nhận những bài sâu sắc trong thơ Hồ Xuân Hương nhé. >>> Đừng bỏ lỡ TOP 100+ ÁNG THƠ TÌNH XUÂN DIỆU "SỐNG" MÃI VỚI THỜI GIAN THE COTH - Top sản phẩm bán chạy Kích thướt M L XL 2XL Kích thướt M L XL 2XL Kích thướt M L XL 2XL Kích thướt M L XL 2XL Kích thướt M L XL 2XL Kích thướt M L XL 2XL
Bước qua thế kỷ XXI, nhìn lại văn học trào phúng thế kỷ XX vẫn là điều cần thiết và cũng là yêu cầu chính đáng. Tiếng cười của thế kỷ đó tồn tại được là do sự xuất hiện của những cây bút trào phúng sáng giá. Thử hỏi, họ đã cười những gì trong thời đại mà họ đang sống? Tác giả thơ trào phúng Lam ĐiềnTrả ơn đời qua lời thơ châm Nhà thơ trào phúng cự phách Tú Mỡ Người không thích… đùa? Trước hết, "kính lão đắc thọ", xin được mở đầu bằng nhà thơ Nguyễn Khuyến 1835-1909, quê ở Nam Định. Ông xứng đáng là bậc "tiên chỉ" trên vuông chiếu của nền văn học trào phúng thế kỷ XX. Tiếng cười của ông thâm trầm và kín đáo. Tưởng là cười cợt, bông lơn nhưng ẩn sau từng dòng chữ là những giọt nước mắt đau đời. Khi đất nước mất vào tay giặc Pháp, nhân cách lớn của Nguyễn Khuyến là không cộng tác với chúng, lấy cớ mắt lòa. Có lần, ông được mời vào trình diện công sứ Hà Nam, thực chất là để hắn kiểm tra thái độ chính trị. Cũng khăn áo chỉnh tề bước vào dinh, thay vì chào hắn, ông hướng vào mấy cây cột vái mấy cái rồi nói "Lạy cụ lớn ạ!". Mọi người bật cười. Ông xin lỗi mắt lòa, không trông thấy gì rõ cả. Viên công sứ giận tím người, nhưng làm sao bắt bẻ được. Khi chứng kiến Hội Tây được tổ chức hằng năm trên đất nước ta thuở ấy - nhằm mừng ngày cách mạng Pháp ông chỉ thấy "Bà quan tênh nghếch xem bơi trải/ Thằng bé lom khom ghé hát chèo/ Cậy sức cây đu nhiều chị nhún/ Tham tiền cột mỡ lắm anh leo" Hội Tây. Những câu thơ trào lộng này khiến ai đọc cũng ngậm ngùi, cũng tủi nhục, cũng đớn đau khi nhìn lại một giai đoạn bi đát của lịch sử nước nhà. Phải thấm nỗi đau, nỗi nhục ấy, Nguyễn Khuyến mới có thể hạ những câu như từng đường gươm sắc bén. Nhà thơ Tú Xương 1870-1907 là người đời truyền tụng "Kìa ai chín suối Xương không nát/ Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn". Lời tiên đoán ấy không sai. Tú Xương nổi tiếng đến độ, người ta cho rằng đất Nam Định có hai đặc sản "Đọc thơ Xương, ăn chuối ngự". Tú Xương đã để lại một bản lĩnh thơ, một sự nghiệp văn học để tạo nên cốt cách trào phúng và trữ tình - sau này, nhiều người cũng bắt đầu sự nghiệp văn học bằng chữ "Tú" của Tú Xương. Có lẽ, ông là người có nhiều "môn đệ" nhất Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Tú Quỳ Phan Quỳ, Tú Xơn Tout seul chỉ có một mình - Phan Khôi, Tú Nạc, Tú Sụn, Tú Trọc, Tú Da... rồi Tú Kếu Trần Đức Uyển, Tú Lơ Khơ Nguyễn Nhật Ánh, Tú Hợi Lê Minh Quốc... Nhà thơ Tú Xương. Tiếng cười của Tú Xương sâu cay, phản ánh rõ nét những nhố nhăng của cái xã hội buổi giao thời Pháp-Việt. Chẳng hạn, đây là cảnh lễ xướng danh của khoa thi năm 1897 "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ/ Ậm ọe quan trường miệng thét loa/ Cờ kéo rợp trời quan sứ đến/ Váy lê quét đất mụ đầm ra/ Nhân tài đất Bắc nào ai đó/ Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà". Nghe mà ứa nước mắt. Trong số các "môn đệ" của Tú Xương, người nối danh không hổ danh thầy là Tú Mỡ 1900-1976. Tiếng cười độc đáo của ông là biết kế thừa cái hay của các sư phụ đi trước và từ ca dao, tục ngữ. Điều làm nên tên tuổi Tú Mỡ là ông đã cười rất ác vào cái ông nghị... gật mà trước và sau ông chưa có ai vượt qua nổi! Ông đã vẽ những bức chân dung bằng thơ với đường nét tiêu biểu nhất, không lẫn lộn với ai khác. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong cảnh khuếch trương của các ông nghị trước khi ra bầu cử, ta thấy có giọng châm biếm hài hước của Tú Xương "Lẳng lặng mà nghe họ diễn thuyết/ Công tâm, công ích, lời tâm huyết/ Phen này mở hiệu viết văn thuê/ Dẫu chẳng làm giàu cũng đỡ kiết/ Họ quẳng tiền ra để cạnh tranh/ Nghe đâu mỗi vé một "rồng xanh"/ Phen này có lẽ mưa ra bạc/ Mà nghị viên ta khỏi phỗng sành" Bầu cử. "Rồng xanh" giấy bạc thời Pháp thuộc. Không rõ, phong thổ của từng vùng đất có ảnh hưởng đến tâm tính hay không, chứ giáp tỉnh Nam Định ở phía Nam là huyện Lý Nhân Hà Nam lại có nhà thơ trào phúng nổi tiếng Kép Trà 1873-1923, tên thật Hoàng Thụy Phương, kém Tú Xương 3 tuổi. Hầu như không một quan tham nào ở Hà Nam thoát khỏi ngọn bút phê phán sắc bén của ông. Sự kiện đáng kể nhất của Kép Trà là đã công khai tấn công bọn "áo mão" mị dân trong lễ kỷ niệm thi hào Nguyễn Du, tối ngày 10-8-1924 tại Hội Khai Trí Tiến Đức Hà Nội. Bài thơ được truyền tụng nhiều nhất của ông là thuật lại buổi lễ đó "Mấy chị đào non cười khúc khích/ Một đoàn mặt trắng huýt lung tung/ Tiên Điền, cụ hỡi hay chăng tá?/ Giỗ cụ, hương trầm bỗng thối hung" Hỏi cụ Tiên Điền. Phan Điện 1874-1945 là cây cười tiêu biểu của Hà Tĩnh. Giống như đàn anh Tú Xương, dù ông văn hay chữ tốt, nhưng khoa thi nào cũng… rớt vì phạm trường quy! Người đầu tiên cười vua bù nhìn Bảo Đại có lẽ là Phan Điện. Khi nhà vua ra Bắc, đi ngang qua huyện Đức Thọ Hà Tĩnh cùng với Nam Phương hoàng hậu, quan lại địa phương cho nam thanh nữ tú xếp hàng đầu rồi giàn hương án để rước đón. Con nít trong làng rủ nhau đi xem "mặt rồng" ầm ĩ nên làm đổ một bức tường, đè chết mấy trẻ nhỏ. Trước sự kiện này, Phan Điện có bài thơ sâu cay "Xiếc vùng Đức Thọ có vui không?/ Cóc nhái hôm nay được thấy rồng!/ Gái đạo phát tài cười tủm tỉm/ Trai lương phải tội chạy long đong/ Mề - đay xiết kể ơn hoàng thượng/ Tường đổ thương thay lũ tiểu đồng/ Đố biết vì ai nên nỗi thế?/ Vì quan sở tại khéo tâng công!" Vì ai?. Đi du lịch miền Trung, đến xứ Huế mộng mơ, chắc hẳn chúng ta sẽ nhớ đến hai câu thơ viết về Huế thuở nước nhà còn nô lệ "Núi Ngự không cây cu ngủ đất/ Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời!". Đó là thơ của cây bút trào phúng đất Thần kinh Nguyễn Khoa Vy 1881-1968, hiệu Thảo Am. Tương truyền, thuở nhỏ, có lần ông lẻn vào Tịnh tâm hái trộm trái cây, gặp lúc vua Thành Thái và thị vệ đang ngồi chơi. Biết đây là cậu học trò thuộc dòng khoa bảng Nguyễn Khoa nên nhà vua mới ra đề thử tài. Nhà thơ Nguyễn Khuyến. Làm thơ xong, vua khen hay và thưởng cho vài chiếc kẹo, Nguyễn Khoa Vy nhận ngay rồi quay lưng chạy. Lính lệ bắt lại ghép vào tội vô lễ với Hoàng thượng, Nguyễn Khoa Vy liền đọc bài thơ tạ tội "Đang nghịch không ngờ lại gặp vua/ Còng lưng mà chạy rớt càng cua/ Bây giờ lại được vua ban thưởng/ Cảm tạ đâu nào dám "bonjour"! Không đề. Tiếng Pháp xen lẫn vào bài thơ tiếng Việt thật tự nhiên- cũng là phong cách cười kín đáo, tế nhị của người Huế vậy. Vượt qua đèo Hải Vân vào Quảng Nam, có lẽ ta nên dừng chân lại tâm tình với nhà thơ Tú Quỳ 1828-1926. Thơ trào phúng của ông khá nhiều, tựu trung là đả kích cường hào ác bá và bài trừ mê tín dị đoan... Chẳng hạn đối với những tên Việt gian, cộng tác với giặc Pháp thì ông chưởi xéo qua bài thơ Vịnh con bò khá độc đáo "Vũ trụ không qua đồng cỏ tốt/ Sơn hà khó sánh miếng ăn no/ Thâm sơn ruộng thẳm dơ lưng cạch/ Cắm cổ lôi cày mặc kẻ lo". Đi dần vào phương Nam, ta ắt gặp Phan Văn Trị 1830-1910 không chỉ là một nhà thơ bút chiến số một của Nam kỳ, ông còn là cây bút trào phúng có bản sắc độc đáo. Ông đả kích không khoan nhượng với cái xấu, sự lươn lẹo của bọn Việt gian ngoi lên bằng con đường nịnh nọt giặc Pháp. Hát bội là bài thơ tiêu biểu cho phong cách của ông "Đứa ghẻ ruồi, đứa lác voi/ Bao nhiêu xiêm áo cũng trơ mòi/ Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc/ Đứa nịnh râu đen mấy sợi còi/ Trên đỉnh có nhà còn lợp lọng/ Dưới chơn không ngựa lại giơ roi/ Hèn chi chúng nói bội là bạc/ Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi". Còn có cả Học Lạc 1842-1915 nữa, tên thật Nguyễn Văn Học. Dù học giỏi nhưng thi không đậu, lại gặp lúc Pháp thực hiện chế độ giáo dục Pháp - Việt nên ông không tha thiết gì đến việc tiến thân bằng khoa cử nữa, bỏ về Mỹ Tho học nghề làm thuốc Bắc kiếm sống. Ngòi bút của ông tấn công không trực diện bọn hương chức tham nhũng qua các bài thơ vịnh Con tôm, Con trâu, Con chó chết trôi... Và đây là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông, dù viết về Ông làng hát bội nhưng ai cũng biết là Học Lạc ám chỉ ai "Trong bụng trống trơn, mang cổ giữa/ Trên đầu trọc lóc, bịt khăn ngang/ Vào buồng gọi tổ, châu đầu lạy/ Ra rạp rằng con, nịt thắt mang". Hầu như xuyên suốt thế kỷ XX, ở vùng nào trên đất nước ta cũng có những cây cười tiêu biểu. Sau năm 1945 cho đến năm 1975 ở ngoài Bắc nổi lên những cây thơ trào phúng như Xích Điểu, Thợ Rèn, Nguyễn Đình, Sĩ Giang, Lã Vọng, Búa Đanh, Huyền Thanh, Chính Nghĩa, Búa Tạ, Đặc Công Tiếng cười của các cây bút này vẫn nặng về xây dựng lối sống mới và chủ yếu là đánh kẻ thù xâm lược bằng những thủ pháp sắc sảo, có ấn tượng. Xin giới thiệu một, hai cây bút tiêu biểu nhất, chẳng hạn, nhà thơ Xích Điểu 1913-2003, người Hà Nội. Ngòi bút của ông tập trung châm biếm kẻ thù và phê phán những biểu hiện tiêu cực trong xã hội. Bài thơ Chống tiêu cực làng ta, ông phê thẳng tay "Tưởng đâu thuở trước bọn văn nô/ Rơi rớt thời nay vẫn sót lò/ Anh bảo bút đây vì tập thể/ Thật ra bút bợ cá nhân to/ Bút bic anh xài đỏ đỏ đen/ Tô màu thành tích nỏ cần xem/ Chỉ cần đối tượng anh tâng bốc/ Luôn nhớ anh bằng những tiếng khen"... Nhà thơ trào phúng Thợ Rèn, 1923-2008 tự nhận viết trào phúng để phục vụ nhiệm vụ chính trị kịp thời, phê phán cái xấu trong nội bộ. Một bài thơ tiêu biểu của Thợ Rèn là Tết Tây "Chúc trước tết Tây để tết ta/ Các quan liêm chính bớt ăn quà/ Nể lòng cấp dưới nên khôn nỡ/ Lòng vả lòng sung ta với ta/ Gần tết ngược xuôi khắp mọi miền/ Xe hơi rầm rập phố Trường Yên/ Thời trân thức thức trên xe ấy/ Biết chở về đâu? Lẽ tất nhiên!". Ngoài ra còn có thể kể thêm các anh tài khác như Bút Châm, Hạt Tiêu, Ong Mật, Mực Đỏ, Dương Quân, Thiện Chí… Về các cây bút trào phúng miền Nam 1954-1975, hầu như chưa có chuyên luận nào đề cập đến. Có thể kể đến Tú Trọc, Hà Thượng Nhân, Cả Tếu, Ch. Số Zách, Trạng Đớp, Tú Kếu, Cung Văn, Tú Ngang... Thơ trào phúng của họ có lúc dám cà khịa cả chính quyền Sài Gòn. Và tất nhiên đã thơ trào phúng thì họ không thể bỏ qua các sự kiện thời sự. Lướt qua thế kỷ thơ trào phúng của thế kỷ XX dẫu do dung lượng một bài báo chưa giới thiệu được trọn vẹn nhưng cũng đủ thấy cái kho kiến văn, cái tầm ngạo nghễ của trí thức nước ta quả thật là rộng lớn vô biên.
Ngày đăng 18/12/2015, 1131 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Lí chọn đề tài Hồ Xuân Hương tượng văn học thấy văn học Việt Nam Không tài hoa xuất chúng mà thơ văn lẫn đời bà làm tốn không nhiều giấy mực giới nghiên cứu Giáo sư Lê Đình Kỵ bàn Hồ Xuân Hương có câu nhận xét sau “Thơ Xuân Hương vốn xa lạ với lối đại ngôn kiểu đó, mà bình dị, tự nhiên - khí mà huyết khí, với khí chất riêng mình” Chính mang cốt cách riêng, khí khái riêng mà ẩn chứa thơ Xuân Hương sức sống tiềm tàng mãnh liệt, chực chờ tuôn trào câu chữ thứ tạo nên cốt cách riêng ấy, nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Mục đích nghiên cứu Việc tìm hiểu kỹ nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương giúp hình dung rõ nét người cá tính thơ bà, đồng thời hiểu lý thơ văn Hồ Xuân Hương lại có giá trị to lớn đến văn học nước nhà Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu đề tài nghệ thuật trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu đề tài xoay quanh tác phẩm thơ Hồ Xuân Hương Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp liệt kê Phương pháp so sánh… NỘI DUNG CHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khái niệm “Trào phúng” “Trào phúng” thân từ Hán - Việt Nếu tách riêng chữ “trào” cười cợt, chế giễu; “phúng” lời bóng gió để châm biếm, đả kích Nghệ thuật trào phúng cách thức dùng ngôn từ ví von, bóng gió để châm biếm, đả kích thói hư tật xấu trái với lương tri, đạo đức xã hội Người ta thường chia trào phúng thành ba loại chính loại khôi hài, cười cợt; loạt phê phán, đả kích loại châm biếm chế giễu Đặc trưng thơ trào phúng yếu tố gây cười, yếu tố hài hước văn thể mặt nội dung lẫn hình thức ta cảm nhận rõ điều thơ Hồ Xuân Hương Đối tượng trào phúng thơ Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương nhìn ung nhọt xã hội đưa vào thơ mình, tiếng chửi bà cất lên đầy khiến người nghe phải cười thích thú Đối tượng lên án bà đa dạng có đặc điểm chung tên “bụng đầy kinh sách” hay hạng “quyền cao chức trọng” lúc cao Đó tên công tử nhà giàu hợm hĩnh, ham ghẹo gái lại võ vẽ làm thơ, lại thích đề thơ trước cửa đền, chùa khoe mẽ “Dắt díu lên đến cửa chiền, Cũng đòi học nói, nói không nên Ai nhắn bảo phường lòi tói, Muốn sống, đem vôi quét trả đền” Bọn Đồ Dốt Bà truy tận gốc lũ hại dân, hại nước không chừa ai, kể lũ vua chúa , quan lại, hiền nhân quân tử cho có sứ mạng truyền bá, hành xử đạo lí thánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội người thật chúng không hám danh, hám lợi mà đam mê tửu sắc “Hồng hồng má phấn duyên cậy Chúa dấu vua yêu này” Vịnh quạt Nếu với tầng lớp vua chúa, quan lại bà chửi thẳng vào thói háo sắc thích “giả vờ” với đám quan thị, bà đánh vào sống trái lẽ tự nhiên bọn chúng “Quan thị” Ngoài ra, sư sãi đối tượng nhắc đến không lần thơ Xuân Hương Trong xã hội rối ren, nhà chùa không giữ vẻ trang nghiêm, thành kính vốn có mà thay vào tên sư vô lại, lợi dụng nơi tu hành để thực hành vi giả dối đồi bại “Sư hổ mang”, “Chùa Quán Sứ”, “Cái kiếp tu hành”… Tuy nhắc đến nhiều trọng tâm “anh hùng quân tử”, Xuân Hương không bỏ qua tên đàn ông bạc tình bạc nghĩa, xem tình cảm cô gái ngây thơ trò chơi để “no xôi chán chè”, chúng thẳng tay rũ bỏ “Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc, Phận liễu đà nảy nét ngang Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? Mảnh tình khối thiếp xin mang” Không chồng mà chửa Trào phúng thơ Xuân Hương thể nhiều cung bậc cảm xúc khác Hả có, thích thú có đắng cay có, chua xót nhiều Tiếng cười mang ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa phản kháng mạnh mẽ, liệt không trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương đậm đà chất trữ tình đặc sắc CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khắc họa hình tượng nhân vật, chủ thể điệu bộ, cử chỉ, tính cách Để góp phần tạo nên thành công việc xây dựng nghệ thuật trào phúng, không nhắc đến tài khắc họa hình tượng nhân vật Hồ Xuân Hương Bà phác nên nét riêng cho nhân vật cách giản đơn, dung dị mà chẳng cần miêu tả ngoại hình từ ngữ, câu thơ dài dòng Bà khéo léo thổi hồn vào nhân vật thông qua biểu lộ thái độ thân “Khéo khéo đâu lũ ngẩn ngơ Lại cho chị dạy làm thơ” Ong non ngứa nọc châm hoa rữa Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa!” Lũ ngẩn ngơ Trong “Giai thoại văn học Việt Nam” có ghi chép, ngày kia, Hồ Xuân Hương thăm chùa Trấn Quốc về, bà lững thững bên bờ hồ Tây có vài tên thầy khóa rảo theo sau, giở giọng chữ nghĩa hòng ghẹo Xuân Hương lặng thinh không nói, đến nghe thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy, không chịu được, bà quay lại đọc dồn cho chúng cho thơ Chỉ với từ “ngẩn ngơ” câu phác họa toàn dáng vẻ tên văn sĩ nửa mùa hay Chúng mang tiếng chữ nghĩa đầy chẳng khác “lũ ngẩn ngơ”, gì, để cô gái trẻ phải “dạy” lại Hồ Xuân Hương gọi chúng “dê cỏn” dê con, dê dê nhỏ, ngây thơ, “dê cỏn” hạng dê lớn, ngang ngược, tự đắc Cách gọi “ong non”, “dê cỏn”, “ngứa nọc”, “buồn sừng” thể thành công chất ti toe anh nửa trẻ nửa người lớn Bọn chúng kẻ “ngựa non háu đá”, hợm hĩnh thực chất chút học thức thật Có thể nói, thú vị, hóm hỉnh Xuân Hương khiến bật cười, cười thích thú xen lẫn nể phục nữ nhi, tài nghệ văn chương bà hẳn thứ mang danh “thầy” nửa mùa Hay “Sư hổ mang”, vị sư thầy đáng kính, đạo mạo hay nghĩ tới nhắc đến chùa chiền, Phật giáo không thấy thơ bà nữa “ Chẳng phải Ngô, ta, Đầu trọc lốc, áo không tà Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm, Vải núp sau lưng sáu bảy bà Khi cảnh, tiu, chũm choẹ, Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi Tu lâu có lẽ lên Sư cụ, Ngất nghểu sen mà.” Sư hổ mang Đầu trọc đỗi bình thường, sư mà đầu chẳng trọc? Thế kèm với từ “lóc” thành “trọc lóc”, “áo không tà”, chân dung nhà sư lên đầy vẻ thấy mỉa mai, đùa cợt Ban ngày bao nhà sư khác, cúng dường,“oản dâng” Phật bình thường, mà ẩn sau đó, “sắc dục” quẩn quanh , vây hãm lấy nhà sư Không thế, chùa chiền vốn chốn tôn nghiêm, thiêng liêng, mà sư với vãi chơi trò chơi đám nít?! Ở chùa có chuông, mõ mà lại có đủ thứ nhạc khí phường bát âm "Khi cảnh, tiu, chũm chọe" Và tụng kinh niệm Phật mà muốn đổi giọng đổi "Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha" chẳng khác diễn tuồng! Chỉ vài hình ảnh cử chỉ, giọng điệu toát hình tượng nhà sư mà người đời kính trọng trở nên biến chất mặt đạo đức đến mức xã hội lúc Cách khắc họa nhân vật Hồ Xuân Hương vô đơn giản lại toát lên hương vị, đặc trưng, điển hình cho phong cách thơ bà Chỉ vài nét chấm phá, hình tượng người lên với đầy đủ đặc điểm, tính chất mà Xuân Hương muốn đề cập đến Đó điều mà nhà thơ thực được, ta thấy rõ nét nhiều thơ “bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương Cách sử dụng từ ngữ Nếu so sánh kiểu lựa chọn từ ngữ Bà Huyện Thanh Quan với cách sử dụng từ ngữ Hồ Xuân Hương, ta thấy có đối nghịch rõ nét hai người Cùng miêu tả đèo câu chữ Bà Huyện Thanh Quan sang trọng, mực thước mang phóng cách thơ văn “quý tộc” “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà Cỏ chen lá, đá chen hoa Lom khom núi, tiều vài Lác đác bên sông, chợ nhà” Qua Đèo Ngang Trong đó, Đèo Ba Dội Hồ Xuân Hương vô gần gũi, thân thuộc nhiều Nếu đứng phương diện ý nghĩa nhã mà so sánh thơ Bà Huyện Thanh Quan hình đen trắng phẳng Đèo Ba Dội tranh ba chiều sống động đầy màu sắc âm Xuân Hương không chiêm nghiệm sống từ khoảng cách xa mà trái lại bà tận hưởng tất âm thanh, màu sắc, hình khối… vạn vật trạng thái sung mãn Nữ thi sĩ tài hoa khai thác triệt để khả tu từ phong phú ngôn ngữ dân tộc hết, nghệ thuật trào phúng bà mài giũa bén nhọn Tài mặt ngôn ngữ không biểu lộ thông qua cách thức miêu tả cảnh vật thiên nhiên, mà muốn trào lộng đó, bà khiến chúng, có bậc “anh hùng”, “quân tử”, “văn nhân” hay chí bậc “vua”, “chúa” phải vẻ thiêng liêng, đạo mạo, bà bóc trần kẻ giả dối mà khoác lên thân áo đạo đức cao sang Cả tiếng xưng hô với thần thánh “đây”, “đấy” bà đứng trước Đền Sầm Nghi Đống nghe đầy vẻ kể cả, xách mé “Ví đổi phận làm trai được, Thì anh hùng há nhiêu!” Đền Sầm Nghi Đống Không thế, việc sáng tạo nhiều từ ngữ lạ, cách thức dùng “Xuân Hương” Những từ ngữ sắc nhọn đậm chất liên tưởng “cửa son”, “bậc đá”, “lún phún”, “nòng nọc”, “lỗ, hang”, “tùm hum”, “mân mó”,… làm tác động mạnh lên thần kinh cảm giác người đọc, buộc người đọc không muốn hình dung phải hình dung Trong thơ Hồ Xuân Hương tràn ngập động từ mạnh, có từ thân động từ mạnh có lẽ nữ thi sĩ chưa vừa ý, bà gắn thêm vào phó từ bổ nghĩa mà ta thấy Tự tình III “Xiên ngang mặt đất rêu đám Đâm toạc chân mây đá hòn.” Tự tình III Từ “ngang” làm cho động từ xiên trở nên cứng chắc, khỏe động tác trở nên “ngọt” hơn, “toạc” biến động từ trở nên mạnh mẽ hết, đâm vút lên chỉa thẳng vào chân mây, làm rách toạc bầu trời, mà ngăn cản Sự thêm thắt đầy sáng tạo tạo nên chất mạnh mẽ thơ Hồ Xuân Hương Có lẽ đặc biệt thơ Hồ Xuân Hương cách sử dụng từ láy lạ Những từ láy có tác dụng diễn tả độ sâu, độ nhoè, luồn lách, chông chênh, cử động nhanh mạnh “hỏm hòm hom”, “trắng phau phau”, “đỏ lòm lom”, … Chỉ từ mà diễn tả chiều không gian, rộng sâu hun hút “Bày đặt khéo khéo phòm Nứt lỗ hỏm hòm hom” Động Hương Tích Hay “Trời đất sinh đá chòm Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom” Hang Cắc Cớ Để diễn tả độ sâu, Xuân Hương dùng hai lần từ “hỏm hòm hom” hai “Hang Cắc Cớ” “Động Hương Tích” Không phải “hun hút”, “thăm thẳm” mà “hỏm hòm ho,”âm “o” tròn môi kết hợp với vần “om” làm mở rộng thêm độ sâu tận hang, đồng thời cho thấy chiều rộng lẫn chiều cao hang động, kích thích trí tò mò người Một từ mà diễn đạt đa chiều không gian đó, nhìn lại dòng thơ thời đại đổ sau, ta khó mà kiếm câu thơ đặc biệt đến Thơ Huy Cận tài tình không tránh khỏi dùng nhiều từ không gian để dẫn giải chiều không gian “Nắng xuống trời lên sâu chót vót Sông dài trời rộng bến cô liêu” Tràng giang Xuân Hương không cần “xuống”, “lên”, “sâu”, chẳng cần “dài”, “rộng” mà từ khiến người đọc hình dung rõ ba chiều không gian vật mà bà muốn nói đến Trong thơ Hồ Xuân Hương sáng tác, từ láy sử dụng với tần suất cao, bao gồm từ láy gợi âm thanh “tỉ tì ti”, “hi ha”, “hu hơ”, “vo ve”, …, từ láy gợi cảm giác, xúc giác “xù xì”, “toen hoẻn”, “lam nham”,…, từ gợi tư vận động “cheo leo”, “vắt vẻo”, “lom khom”, ngất nghểu,… hay từ tượng gây tiếng động khua lắc cắc, vỗ long bong, vỗ phập phòm, rơi thánh thót, rơi lõm bõm… Ngay từ láy tượng hình hóa nội tâm nhân vật trữ tình “Tự tình” có nét nghĩa vận động “nổi nênh”, “lênh đênh”, “lai láng”, …đều gợi trôi nổi, chơi vơi Thơ Xuân Hương thực cá tính mà không nhà thơ bắt chước Bà đưa ngữ vào thơ cách tự nhiên “tí con”, “lại đây”, “muốn sống”… kể tiếng chửi “bá ngọ”, “chém cha”, “cha kiếp”, “lũ ngẩn ngơ”,… mang đậm đặc trưng dân tộc Không trau chuốt, tô vẽ, chất bình dân mộc mạc ngấm sâu Hồ Xuân Hương tạo nên tiếng cười thu hút, gần gũi đại chúng Lê Hoài Nam viết "Hồ Xuân Hương" in Nghĩ thơ Hồ Xuân Hương Nxb GD 1998 nhận xét "Xuân Hương có vốn ngôn ngữ phong phú, xác, đồng thời độc đáo Điều chứng tỏ Hồ Xuân Hương nắm vững ngôn ngữ dân tộc, mà biểu cá tính mạnh mẽ Xuân Hương Có tiếng hỏm hòm hom, trơ toen hoẻn, chín mõm mòm, đỏ lòm lom, sáng banh, trưa trật phải người có lĩnh vững vàng Xuân Hương đưa vào văn học, vào thi ca Nói chung ngôn ngữ Xuân Hương có sức biểu mạnh, xúc tích, hình ảnh sinh động, nói tiếng đắc tiếng" Cách sử dụng từ ngữ đầy tính gợi sinh động cách thức góp phần tạo nên tiếng cười cho thơ văn Hồ Xuân Hương Không bình lặng mà loạn, văn thơ Xuân Hương giống tính cách người bà, có vài trăm, vài nghìn năm sau nữa, làm “điêu đứng” giới thơ văn “Tính dục” thơ Hồ Xuân Hương Không tài tình cách khắc họa, xây dựng nhân vật sử dụng từ ngữ độc đáo, “tính dục” thơ Hồ Xuân Hương thứ góp phần xây dựng thành công nghệ thuật trào phúng Đã có nhiều ý kiến bàn cãi thơ Hồ Xuân Hương nhiều lời nhận định đưa Liệu thơ bà có hay không tồn yếu tố “dâm” “tục”? Tuy thế, có điều mà không phủ nhận rằng, ẩn sâu câu chữ thơ bà đỗi đặc biệt để nhận nó, tiếng cười bật cách vô tự nhiên Hồ Xuân Hương khéo léo lồng ghép ý tứ “thầm kín” lớp bề “thanh tao” “Một đèo, đèo lại đèo Khen khéo tạc cảnh cheo leo Cửa son đỏ loét tùm hum Hòn đá xanh rì lún phún rêu” Đèo Ba Dội Đọc thơ ta thấy rõ Hồ Xuân Hương miêu tả vẻ đẹp Đèo Ba Dội Một đèo Ba Dội với cỏ mọc bừa bãi, bước chân lên đèo thấy đất đỏ chân, hang động màu đỏ chẳng có khiến ta phải phân vân, lí giải dòng thơ bà góc độ phồn thực, cảm thấy thú vị hình ảnh tưởng chừng chân thực lại mang tầng nghĩa sâu xa, sống động đến kì lạ Nói mà không nói, tả mà không tả mà để người đọc tự khơi dậy trí tưởng tượng Bả không nói toạc điều thầm kín 10 buồng the gác kín mà thông qua biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửi gắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên Trong thời đại Nho giáo phong kiến khắt khe, cô gái Hồ Xuân Hương không tự sống thật với tình yêu, hôn nhân, mà ngược lại phải chịu cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính thế, thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu Hồ Xuân Hương sáng tác nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tình cảm, hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời phương tiện để đả kích tầng lớp thống trị mục nát Hay thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương khéo léo đến mức khiến hình dung rõ ràng từ việc dựng đu cảnh chơi đu trai, gái thời xưa. “Bốn cột khen khéo khéo trồng Người lên đánh kẻ ngồi trông Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới Hai hàng chân ngọc duỗi song song Chơi xuân có biết xuân tá Cọc nhổ lỗ bỏ không !” Đánh đu Sự khéo léo, nhịp nhàng cặp từ trai – gái, đu - uốn, khom khom cật ngửa ngửa lòng không gợi sức hút mặt thẩm mỹ mà thông qua đó, ta cảm nhận niềm vui đôi trai gái tham gia trò chơi đánh đu lễ hội làng quê Đặc biệt từ “cật” câu luận danh từ phận thể đứng sau từ láy “khom khom” thường hiểu động từ, vần “at” trắc cao âm gật, bật, lật tạo cảm giác hành động, nhịp nhanh, liên tục cho thấy hào hứng chơi đu Kông thế, hình ảnh “hai hàng chân ngọc” thi 11 sĩ phác họa sống động mà không bút vẽ họa sĩ làm Làm có vẽ nên tranh đôi hàng chân co duỗi nhịp nhàng đến thế? Cái chỗ “đánh đu” mà lại đánh đu Một thơ với nhiều lớp nghĩa kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với đa tầng nhiều lớp nghĩa, thấy rõ tài người phụ nữ tài sắc vẹn toàn Tính “dục” thơ Hồ Xuân Hương dùng để đả kích tên hiền nhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng Mang danh thế, thực chất, nhìn thấy vẻ đẹp, thân thể “thiếu nữ ngủ ngày” “Đôi gò Bồng Đảo hương ngậm Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông” thì “Quân tử dùng dằng chẳng dứt Đi dở không xong” Thiếu nữ ngủ ngày Chỉ từ láy “dùng dằng” đủ để lột tả phân vân, tranh đầu nội tâm dội nên hay nên ở? Đi tiếc lỡ dịp may lạ lùng, chiêm ngưỡng thân ngọc ngà nằm chõng ngàn năm có Ở không xong lỡ có người trông thấy, cô gái tỉnh lại, tiếng lành đồn xa chịu chê cười Và cuối thơ, người ta chàng quân tử định “đi” hay “ở” đời thường đàn ông ngồn ngộn kìm chế Ta bật cười trước băn khoăn anh ta, nhìn muốn lại, mà lại không thể, muốn mà lại chẳng Ôi oăm thay! Biện pháp tu từ Một biện pháp tu từ sử dụng phổ biến thơ Hồ Xuân Hương biện pháp nói lái Nói lái biện pháp tu từ dùng cách đánh tráo phụ âm đầu, vần điệu hai hay nhiều âm tiết để tạo nên lượng ngữ nghĩa bất ngờ, nhằm mục đích châm biếm, đùa vui ây hình thức chơi chữ đặc biệt 12 ngôn ngữ phân tiết tiếng Việt có từ lâu đời thường thấy văn học dân gian Nó tồn câu ca dao, tục ngữ câu hát người xưa “Con cá đối nằm cối đá Con mèo đuôi cụt năm mục đuôi kèo” Hay Cam sành nhỏ ương Ngọt mật đường nhắm lớ anh Thanh ương tuổi mong chờ Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà Ca dao Qua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành biện pháp nghệ thuật đặc trưng thơ bà Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm từ ngữ bà mang nhiều tầng nghĩa phong phú, người ta chiêm nghiệm ra, tiếng cười phá lên đầy thú vị sảng khoái, người ta cảm thấy tâm đắc khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đà chất nghệ thuật tác phẩm bà “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Làm chi chút tẻo tèo teo Thuyền từ muốn Tây Trúc Trái gió phải lộn lèo” Sư hoạnh dâm Xét bề mặt ngữ nghĩa từ có ý nghĩa, tạo nên nội dung thống nhất, hoàn chỉnh “Lộn lèo” dây lèo thuyền buồm bị ngược gió phải lộn ngược trở lại, “trái gió” ngược gió Tuy nhiên lái lại, thơ lại tạo nên lớp nghĩa khác, hoàn toàn không liên quan đến nghĩa gốc tự thân mục đích xoáy sâu vào nhân vật nhắc đến Luận nghĩa thứ hai, hoạt động thuộc 13 ông sư, bà vãi, tiểu… vào đây? Tài tình chỗ từ ngữ mang nghĩa không sống sượng, chớt nhã, khiêu dục… Ở góc độ khác, tài tình Hồ Xuân Hương thể việc dùng từ thuộc trường từ vựng thơ Bài thơ Khóc Tổng Cóc, 28 chữ có từ vật thuộc loài cóc “Chẫu chàng”, “nhái bén”, “nòng nọc”, “chẫu chuộc”, “cóc” Bài “Bỡn bà lang khóc chồng” có nhiều từ vị thuốc “cam thảo”, “quế chi”, “trần bì”, “thạch nhũ”, “quy thân”, “liên nhục”…cả từ hành động bào chế thuốc, dụng cụ làm thuốc “sao”, “tẩm”, “dao cầu”… Bên cạnh đó, việc vận dụng thủ pháp ẩn dụ làm tăng thêm tính biểu tượng, gợi hình cho tranh với đường nét mà Xuân Hương phác thảo nên Mượn hình ảnh ốc nhồi hay mít để đả phá đám quân tử đạo mạo, cao thực chất chuyên đùa bỡn tình cảm cô gái nhà lành thông qua đó, nữ thi sĩ thể ước mơ hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn “Bánh trôi nước” mà nữ sĩ nhắc đến vẻ đẹp hình thể, tâm hồn người gái thân phận bé nhỏ, đời có phũ phàng, xã hội có vùi giập “em giữ lòng son “Tấm lòng son " biểu phẩm chất cao đẹp người phụ nữ xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc mà không đủ sức làm lay chuyển KẾT LUẬN Hồ Xuân Hương thổi luồng gió vào văn học viết Việt Nam Có thể nói, bà người phụ nữ không tài hoa mà gan dạ, dám nói cần nói nói thẳng, nói thật không vòng vo, né tránh Ngôn ngữ Xuân Hương sử dụng giản dị, dễ nhớ, dễ đọc, phù hợp với tầng lớp bình dân Không thế, ngòi bút xuất sắc mình, nữ sĩ khéo léo đưa nghệ thuật trào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc thông qua đó, xã hội với đầy rẫy bất công mà nạn nhân người 14 phụ nữ tái lên Bản thân Hồ Xuân Hương người phụ nữ, chịu kiếp làm lẽ nên thấm thía nỗi đau Chính thế, thơ văn Hồ Xuân Hương mang nội dung chân thực không thế, tính nghệ thuật đậm đà Và nghệ thuật trào phúng bà vô độc đáo khác biệt 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO Bắc Giang, Phiếm Luận thơ Hồ Xuân Hương Bùi Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười thơ Nôm truyền tụng thuộc tượng Hồ Xuân Hương Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục thơ Hồ Xuân Hương Đỗ Lai Thúy, Lý giải dâm tục thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín ngưỡng phồn thực Kiều Văn, Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận “Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên kỷ” Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục thơ Nôm Hồ Xuân Hương góc độ so sánh.” 10 Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm 11 Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg – Thơ đời, 2010 [...]... Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với cái nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên thế kỷ” Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc độ so sánh.” 10 Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm 11 Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg... cũng rất đậm đà Và nghệ thuật trào phúng của bà cũng vô cùng độc đáo và khác biệt 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 2 Bắc Giang, Phiếm Luận về thơ Hồ Xuân Hương Bùi Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười trong thơ Nôm truyền tụng thuộc hiện tượng Hồ Xuân Hương 3 Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục trong thơ Hồ Xuân Hương 4 Đỗ Lai Thúy, Lý giải cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tín ngưỡng phồn thực 5 6 7 8 9... léo đưa nghệ thuật trào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc và cũng thông qua đó, xã hội với đầy rẫy những bất công mà nạn nhân chính là những người 14 phụ nữ cũng được tái hiện lên Bản thân Hồ Xuân Hương cũng là người phụ nữ, cũng chịu kiếp làm lẽ nên càng thấm thía nỗi đau Chính vì thế, thơ văn Hồ Xuân Hương mang nội dung chân thực và không chỉ thế, tính nghệ thuật cũng... thấy trong văn học dân gian Nó tồn tại trong những câu ca dao, tục ngữ câu hát của người xưa “Con cá đối nằm trong cối đá Con mèo đuôi cụt nó năm mục đuôi kèo” Hay Cam sành nhỏ lá thanh ương Ngọt mật thanh đường nhắm lớ bớ anh Thanh ương là tuổi mong chờ Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà Ca dao Qua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành một biện pháp nghệ thuật rất đặc trưng trong thơ. .. cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu là Hồ Xuân Hương được sáng tác ra nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tình cảm, được hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời còn là phương tiện để đả kích tầng lớp thống trị mục nát Hay trong bài thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương đã khéo léo đến mức khiến chúng ta có thể hình dung rõ ràng từ việc dựng cây đu cho đến... Một bài thơ với nhiều lớp nghĩa sẽ kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với sự đa tầng nhiều lớp nghĩa, chúng ta sẽ càng thấy rõ tài năng của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn này Tính “dục” trong thơ Hồ Xuân Hương còn được dùng để đả kích những tên hiền nhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng Mang danh là thế, nhưng thực chất, khi nhìn thấy vẻ đẹp, thân thể của “thiếu nữ ngủ ngày” “Đôi gò Bồng Đảo hương. .. cuối bài thơ, người ta vẫn không biết chàng quân tử ấy quyết định “đi” hay “ở” dù cho cái bản năng rất đời thường của đàn ông ấy nó cứ ngồn ngộn không thể kìm chế được Ta bật cười trước cái sự băn khoăn của anh ta, càng nhìn càng muốn ở lại, mà lại không thể, muốn đi mà lại chẳng đi được Ôi oái oăm thay! 4 Biện pháp tu từ Một trong những biện pháp tu từ được sử dụng rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân Hương. . .trong buồng the gác kín mà thông qua các biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửi gắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên Trong thời đại Nho giáo phong kiến khắt khe, những cô gái như Hồ Xuân Hương không được tự do sống thật với tình yêu, hôn nhân, của chính mình mà ngược lại còn phải chịu sự cưỡng ép, gò bó theo lề lối Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục”... chất cao đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc bấy giờ mà không ai có thể đủ sức làm lay chuyển nó KẾT LUẬN Hồ Xuân Hương đã thổi một luồng gió mới vào nền văn học viết Việt Nam Có thể nói, bà là một người phụ nữ không chỉ tài hoa mà còn rất gan dạ, dám nói những gì cần nói và nói thẳng, nói thật chứ không vòng vo, né tránh Ngôn ngữ Xuân Hương sử dụng rất giản dị, dễ... thuật rất đặc trưng trong thơ bà Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm trong từng từ từng ngữ của bà đều mang nhiều tầng nghĩa hết sức phong phú, để mà khi người ta chiêm nghiệm ra, ngoài tiếng cười phá lên đầy thú vị và sảng khoái, người ta còn cảm thấy tâm đắc và khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đà chất nghệ thuật trong tác phẩm của bà “Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Làm chi một chút ... phẩm thơ Hồ Xuân Hương Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp liệt kê Phương pháp so sánh… NỘI DUNG CHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ... chứa phản kháng mạnh mẽ, liệt không trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương đậm đà chất trữ tình đặc sắc CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG Khắc họa hình tượng nhân vật,... Bản chất thơ Hồ Xuân Hương Lại Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng thơ Hồ Xuân Hương Nguyễn Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với nhìn nữ quyền luận Nguyễn Ngọc Thơ, Tiểu luận Hồ Xuân Hương – Ghẹo - Xem thêm -Xem thêm NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, , CHƯƠNG II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG, Cách sử dụng từ ngữ, Biện pháp tu từ
Thơ Trào Phúng Là Gì ❤️️ 50+ Bài Thơ Trào Phúng Hay Nhất ✅ Chia Sẻ Chùm Thơ Đặc Sắc Của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến. Thơ Trào Phúng Là GìCách Làm Thơ Trào PhúngNhững Bài Thơ Trào Phúng Hay NhấtTuyển Tập Thơ Trào Phúng Về Tình Yêu VuiChùm Thơ Trào Phúng Hiện ĐạiChùm Thơ Trào Phúng Về Phụ Nữ Đặc SắcThơ Trào Phúng Của Hồ Xuân Hương Bất HủÁng Thơ Trào Phúng Của Tú Xương Độc ĐáoThơ Trào Phúng Nguyễn Khuyến Chọn LọcChùm Thơ Trào Phúng Của Tú Mỡ Ấn Tượng Nội dung đầu tiên của bài viết hôm nay, xin mời bạn đọc cùng tìm hiểu và khám phá xem Thơ Trào Phúng Là Gì nhé. Thơ trào phúng tiếng Pháp poésie satirique là một thể thơ thuộc loại trào phúng, dùng tiếng cười để xây dựng tư tưởng, tình cảm cho con người, chống lại cái xấu xa, lạc hậu, thoái hóa, rởm đời, hoặc để đả kích, vạch mặt kẻ thù, đánh vào những tư tưởng, hành động mang bản chất thù địch với con người. Cách Làm Thơ Trào Phúng Về Cách Làm Thơ Trào Phúng, tác giả cần vạch mâu thuẫn của sự vật – mâu thuẫn giữa cái bên ngoài và cái thực chất bên trong – để làm cho người đọc nhận thấy sự mỉa mai, trào lộng của sự vật là cách làm chủ yếu của thơ trào phúng; cho nên thơ trào phúng thường sử dụng lối nói phóng đại, so sánh, chơi chữ dí dỏm hay lời nói mát mẻ sâu cay. Có thể chia thơ trào phúng ra làm hai loại thơ châm biếm và thơ đả kích. Thơ châm biếm nhằm mục đích giáo dục xã hội, giáo dục con người bằng nụ cười nhẹ nhàng mà kín đáo, dí dỏm mà sâu sắc. Nụ cười đó bao hàm cả việc phê phán lẫn tinh thần xây đả kích nhằm lột mặt nạ kẻ thù bằng nụ cười có sức công phá mãnh thơ tiêu biểu cho dòng thơ trào phúng đó là Tú Xương, Tú Mỡ, Đỗ Phồn, Đồ Bì,…. Tham khảo chi tiết 🍃Cách Làm Thơ🍃 50+ Bài Thơ Tự Sáng Tác Hay Những Bài Thơ Trào Phúng Hay Nhất Ngay sau đây xin chia sẻ đến bạn đọc Những Bài Thơ Trào Phúng Hay Nhất Áo bông che bạnTác giả Tú Xương Hỡi ai, ai có thương không?Đêm mưa, một mảnh áo bông che đầuVì ai, ai có biết đâu?Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô?Người đi Tam Đảo, Ngũ HồKẻ về khóc trúc Thương Ngô một mìnhNon non nước nước tình tìnhVì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ! Sư hoạnh dâmTác giả Hồ Xuân Hương Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,Làm chi một chút tẻo tèo từ cũng muốn về Tây Trúc,Trái gió cho nên phải lộn lèo. Ghét tếtTác giả Tú Mỡ Thiên hạ sao ưa tết?Hẳn vì mặc áo đẹpTớ đây bảo Tết phiềnGhét!Tiêu pha thật tốn tiềnChè chén cứ liên miênHết Tết đâm lo sợĐiên!Mồng một đi mừng tuổiChúc nhau nghe inh ỏiToàn câu sáo rác taiThôi!Mừng tuổi đèo phong baoNăm xu lại một hàoAi sinh cái lệ đó?Hao!Kiết xác như vờ rồiCòn ngông đốt pháo kêu Tiền hỡi tiềnDại! Cái giếngTác giả Hồ Xuân Hương Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,Giếng tót thanh thơi rất lạ trắng phau phau hai ván ghép,Nước trong leo lẻo một dòng gà lún phún leo quanh mép,Cá diếc le te lội giữa ấy thanh tân ai đã biết,Đố ai dám thả nạ rồng rồng. Bạn Đến Chơi NhàTác giả Nguyễn Khuyến Đã bấy lâu nay bác tới thời đi vắng, chợ thời sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta. Hang Cắc CớTác giả Hồ Xuân Hương Trời đất sinh ra đá một chòm,Nứt làm đôi mảnh hổng hòm hầm rêu mọc trơ toen hoẻn,Luồng gió thông reo vỗ phập nước hữu tình rơi lõm bõm,Con đường vô ngạn tối om ai đẽo đá tài xuyên tạc,Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm. Chùa Quán SứTác giả Hồ Xuân Hương Quán sứ sao mà cảnh vắng teo,Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?Chày kình tiểu để suông không đấm,Tràng hạt vãi lần đếm lại banh không kẻ khua tang mít,Trưa trật nào người móc kẽ kiếp đường tu sao lắt léo,Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo. Muốn Lấy ChồngTác giả Nguyễn Khuyến Bực gì bằng gái trực phòng không?Tơ tưởng vì chung một tấm gác rồng mây ngao ngán đợi,Bên trời cá nước ngẩn ngơ vui, lắm lúc cười cười gượng,Giả dại, nhiều khi nói nói biết có chồng như có cánh,Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông. Miếu Sầm thái thúTác giả Hồ Xuân Hương Ghé mắt trông lên thấy bảng treo,Kìa đền Thái thú đứng cheo đây đổi phận làm trai được,Thì sự anh hùng há bấy nhiêu. Vợ chồng ngâuTác giả Tú Xương Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu,Con trời lấy chú chăn trâu cũng là duyên, hai thời là nợ,Sợi xích thằng ai gỡ cho ra?Vụng về cũng thể cung nga,Trăm khôn nghìn khéo chẳng qua mục là sợ muộn chồng chăng tá?Hơi đâu mà kén cá chọn canh!Lấy ai, ai lấy cũng đành,Rể trời đâu cả đến anh áo buồm. Lỡm học tròTác giả Hồ Xuân Hương Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ,Lại đây chị dạy lối làm non ngứa lợi châm hoa rữa,Dê bé buồn sừng húc giậu thưa. Chia sẻ trọn bộ 🌱Thơ Châm Biếm Người Nhiều Chuyện ❤️️ 30+ Bài Mỉa Mai Hay Tuyển Tập Thơ Trào Phúng Về Tình Yêu Vui Nhất định đừng bỏ qua trọn bộ Tuyển Tập Thơ Trào Phúng Về Tình Yêu Vui bên dưới Lời Gái GoáTác giả Nguyễn Khuyến Chàng chẳng biết gái này gái goá,Buồn nằm suông, suông cả áo thay cái mụ tá chàng trẻ tuổi ép làm lứa đôi. Chàng tuổi trẻ chơi bời quên nhọc,Gái già này sức vóc được bao?Muốn sao, chiều chẳng được tuy sum họp, sau nào được lâu? Lấy chồng vốn nhờ câu ăn mặc,Chẳng ngờ rằng đói rách hổ ngươi;Vốn xưa cha mẹ dặn lời,Tư bôn lại phải kẻ cười người chê. Hỡi mụ hỡi, thương chi thương thế?Thương thì hay, nhưng kế chẳng thì gạo vải cho vay,Lấy chồng thì gái goá này xin van! Ba cái lăng nhăngTác giả Tú Xương Một trà, một rượu, một đàn bàBa cái lăng nhăng nó quấy taChừa được cái gì hay cái nấyCó chăng chừa rượu với chừa trà! Nàng thơ của tôiTác giả Tú Mỡ Tú tôi kết bạn với nàng ThơCô ả xinh xinh tính ỡm ờNhí nhảnh nhưng mà hơi khó nếtHay dằn hay dỗi, ít tơ mơ…Những sớm bình minh buổi đẹp trờiCây rung rinh lá, cỏ xanh tươiÊm đềm tôi thấy lòng thơ tháiẤy lúc cô nàng quấn quít thỉnh đi đôi, bước dịu dàngĐồng quê cùng ngắm cảnh mênh mangTrông mây, nhìn bướm, nghe chim hótThi hứng lòng tôi thấy chứa lúc đưa chân đến sở làmVào đời thực tế hết mơ màng!Vô tình cô ả theo chàng TúTới chốn làm ăn, cảnh rộn máy rào rào tựa pháo ranNhững hồi chuông bấm tiếng kêu vangKẻ đi tất tưởi, người cặm cụiGiấy má hồ sơ để ngổn việc hằng ngày Tú vác raGiấy tờ sổ sách với “măng đa”Cô nàng ngơ ngác kề tai hỏi“Anh Tú làm chi, chẳng phải thơ!”Buồn thỉu buồn thiu, Tú băn khoănRằng “Việc anh làm kiếm gạo ănVương lấy nợ đời nên phải trótKéo cày lận đận đã bao này chẳng phải để đôi taThơ thẩn cùng nhau chuyện phất phơNàng hãy dằn lòng lui gót vậyHẹn hò khi khác sẽ tơ mơ…”Cô nàng phụng phịu kém vui tươiNhếch một nụ cười rất mỉa maiCong cớn nguýt dài, đi mất hútMặc anh ký cóp ngẫn ngơ tiếc tôi đành chỉ nhún vaiChúi đầu làm trọn việc sinh nhaiCho qua ngày ấy sang ngày khácBa chục năm trời kiếp khổ mặc nàng Thơ với gió giăngChơi non chơi nước dạo lăng băngCó khi vắng mặt lâu lâu lắmBỏ lửng nhà thơ chẳng đãi khi cao hứng bất thình lìnhNàng lại về chơi với bạn tìnhĐem vẻ vui tươi và nhí nhảnhCho mình an ủi cái vong linh. Khóc chồng làm thuốcTác giả Hồ Xuân Hương Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì,Thương chồng nên phải khóc tì ngào thiếp nhớ mùi cam thảo,Cay đắng chàng ôi vị quế nhũ trần bì sao để lại,Quy thân liên nhục tẩm đem cầu thiếp biết trao ai nhỉ,Sinh ký chàng ôi tử tắc quy. Vịnh nằm ngủTác giả Hồ Xuân Hương Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,Tiên nữ nằm chơi quá giấc trúc chải cài trên mái tóc,Yếm đào trễ xuống dưới nương gò Bồng Đảo sương còn ngậm,Một lạch Đào Nguyên suối chửa tử dùng dằng đi chẳng dứt,i thì cũng dở ở sao xong. Cùng tìm hiểu tuyển tập 🍀Thơ Châm Biếm Đàn Bà Ngoại Tình🍀 30+ Bài Về Đàn Bà Hư Chùm Thơ Trào Phúng Hiện Đại Xin tổng hợp cho bạn đọc thêm Chùm Thơ Trào Phúng Hiện Đại cực ấn tượng Lừa đảoTác giả Hải Đăng Nếu một lần bị lừaSẽ một lần bớt dạiNếu thêm một lần nữaSẽ một lần cứng cáp Nếu vài lần bị lừaNgười sẽ lỳ phản ứngCảnh giác là nón đỡPhòng vệ dần bản năng Ai chẳng may bị lừaSẽ đứng lên bước tiếpKẻ lừa, kiếm ăn mãiSẽ nhổ râu trong tù. Đại thầy thuốc bị bắt!Tác giả Hải Đăng Xôn xao chuyện thầy thuốcĂn chặn tiền bệnh nhânCái án to cột đìnhNâng thiết bị miếng mỏ Cái quan trọng ông toTo danh hiệu cao quýMà lòng dạ hiểm độcNgỡ chuyện đùa trần gian Nghĩ đâm thêm bực tứcVà ngán ngẩm đi thôi1 tâng 5 sút bóngNhận cả đống lương tâm? Mai ngày ngồi trong khámĐếm lá rụng vàng rơiHỏi bao người khốn khóLệ nào rớt quanh đây! Chuột Khóc MèoTác giả Đinh Kim Chung Vào tháng Mão, năm gà, ngày TýChuột tao say bí tỉ rời hangNghe tin Mèo đến thiên đàngTao không cầm nổi hai hàng lệ rơi Này mèo hỡi! Mày xơi thịt lắmBụng trương phềnh, lại khắm và chuaMày toàn chén thức ăn thừaChê tao vừa nhỏ lại vừa bị hôi Đời chuột quả là đời vô phướcTuổi thọ luôn phụ thuộc vào màyRất may thời thế đổi thayChứ không chắc chắn là mày nuốt tươi Mày được sống với người, với chủĐôi khi còn được ngủ chung chănĐược coi võ thuật khỏa thânCòn tao chui lủi khó khăn cực kỳ Mày hay dọa tao thì mất mậtGiải phẫu tao đúng thật có đâuCũng may không bọn nhà giàuNó ngâm mật với rượu màu càng toi Mày không sợ thiệt thòi chi cảChỉ là phim hoạt họa buồn gìMèo Tôm sợ chuột JeryCòn trong thực tế mày đì chết luôn Loài người mỗi lúc buồn, lúc khổHọ thường xơi “tiểu hổ” rượu taTìm mày họ mổ phanh raThân người cho lắm, chết bà mày chưa! Tao rất sợ ngày xưa trở lạiĐói thối mồm lấy cái chi xơi?Rồi mày lại chén chuột thôiKhóc mày nhưng bụng mừng ơi là mừng! Chuyện Của ẾchTác giả Đinh Kim Chung Ếch ta nằm sấp đã quenHôm nay nằm ngửa nhìn lên khung trờiTự dưng bụng chướng xì hơiPít tông dồn nén mấy lời chua ngoa Nhân gian ai cũng chửi ta“Ếch ngồi đáy giếng” nhìn ra lạc loàiLại nghe “nước đổ lá khoai”Đành leo lên đó nằm dài cho khô Cả đời ếch…cóc cần ô“Nhẵn như đít ếch” ướt khô cũng thừaNhưng vì nhân tiện trời mưaẾch xin ôn lại chuyện chưa kể rằng Tình hình trong…nước rất căngCó loài đỉa đói không răng cắn ngườiChúng thường ham thích máu tươiSống dai bị cắt làm mười chẳng sao Bọn tôm thì thích nhảy caoĐuôi cong đít lộn lên đầu thường xuyênBọn lươn, bọn chạch da trơnCả đời luồn lách dưới bùn đen kia Bọn Trê lợi dụng râu riaĐể che đôi ngạnh chuyên chìa ra đâmBọn ba ba lặn sủi tămNgậm mồm, sấm đánh cái rầm mới thôi Bọn trai, sò, hến, ốc nhồiLại dùng vỏ cứng thay đôi mắt mùBọn cua ngang quá hóa nguHai càng tám cẳng chẳng thu vào giùm Thế còn bọn chuối lum khumNhiều khi đắm đuối vì đùm bọc conĐòng đong, cân cấn, rô ronChép, trôi, mè, trắm…vẫn còn khá đông Bọn này sống cũng như khôngChỉ quăng mẻ lưới là xong cuộc đờiẾch ta chán nước lắm rồiLên đây nằm ngửa nhìn trời xem sao Trên bờ chẳng tốt là baoChim muông cũng muốn bổ nhào xơi taVài con rắn lưỡi thè raVo ve lũ muỗi như là trấu bay Lũ ruồi cũng đến bu đầyMấy đàn kiến cỏ đợi ngày ếch thăng…Cực kỳ căng! Cực kỳ căngPhải chăng ở nước? Phải chăng lên trời? Ếch ta vắt cẳng xì hơiTiếng kêu …ộp ộp mấy lời ai nghe?! Phố MộTác giả Đinh Kim Chung Một bữa về quê nắng xế tàQua vùng lạnh lẽo cánh đồng maKhói nhang quạnh quẽ ơ thờ khóiPhố mộ lom khom những cụ già Lạnh gáy hồn ai cứ rập rìnhCánh đồng ma chắc đã nhiều linhNgười dương dẫu khổ, người âm sướngNhững dãy mồ hoang mới trở mình Có mộ người khôn họ bảo rồDo hồi chửa chết chống tham ôBởi thua nghĩ quẩn lao đầu hốÔm hận ngàn thu xuống đáy mồ! Mộ kẻ làm quan nổi một thờiNhưng vì muốn giết bỏ bầy dơiTự nhiên đổ bệnh u phình tướngDại quá! Cành que lại chống giời Có mộ chàng trai khỏe cực kỳNhưng nghiền thuốc phiện mới làm biTự dưng máu dãi sùi ra mépNhớ bậu mà không kịp nói gì Phía mộ hai thằng bố đại giaXây to khủng khiếp tựa như nhàTậu xe phân khối đua đường hẹpHúc phải xe bồn đứt cổ ra Có cặp tình nhân tưởng vĩnh hằngGia đình chê hộ đối môn đăng“Đồi thông hai mộ” quàng tay hátLên tận tầng 5 nhảy cái ngoằng Mộ mấy học sinh bởi đến trườngNhưng cầu không có nghĩ mà thươngLội sông lũ cuốn nên hà báLấy thủy cung thay chốn học đường Có mộ non vừa mới lấp xongTrạm y tế xã họ tiêm phòngTrẻ đang khỏe mạnh lăn đùng ngápKết luận lâm sàng bệnh mới vong Phố mộ giờ đây ít cụ giàQuê nghèo họ bảo giống làng maĐồ buôn bán chạy thu lời nhấtCó lẽ là… xôi với thịt gà… Gửi tới bạn chùm 🌿Thơ Châm Biếm🌿 Tuyển Tập 100+ Bài Hay Chùm Thơ Trào Phúng Về Phụ Nữ Đặc Sắc Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm Chùm Thơ Trào Phúng Về Phụ Nữ Đặc Sắc Thương Ôi Phận GáiTác giả Hồ Xuân Hương Thương ôi phận gái cũng là chồngGhét bỏ nhau chi hỡi Nguyệt ôngRồng tắm ao tù từng phận tủiMưa gieo xuống giếng uổng lòng mongXót thân hoa nở song lầm cátThẹn mặt trần ai đứng giữa vòngÂu hẳn tiền nhân sao đấy táThôi đành một kiếp thế cho xong Thương Phận Người Đàn BàTác giả Hồ Xuân Hương Hỡi chị em ơi có biết khôngMột bên con khóc một bên cu lổm ngồm bò trên bụng,Thằng bé hu hơ khóc dưới cả những là thu với vénVội vàng nào những bống cùng con cái nợ là như thế,Hỡi chị em ơi có biết không ? Quả mítTác giả Hồ Xuân Hương Thân em như quả mít trên cây,Da nó xù xì múi nó tử có yêu xin đóng cọc,Đừng mân mó nữa nhựa ra tay. Bánh trôi nướcTác giả Hồ Xuân Hương Thân em thời trắng phận em tròn,Bảy nổi ba chìm mấy nước nát mặc dầu tay kẻ nặn,Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son. Không chồng mà chửaTác giả Hồ Xuân Hương Cả nể cho nên hoá dở dang,Sự này có thấu hỡi chăng thiên chưa thấy nhô đầu dọc,Phận liễu sao mà nảy nét tội trăm năm chàng chịu cả,Chữ tình một khối thiếp xin chi miệng thế lời chênh lệch,Chẳng thế nhưng mà thế mấy ngoan. Lấy chồng chungTác giả Hồ Xuân Hương Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,Chém cha cái kiếp lấy chồng chừng mười hoạ hay chăng chớ,Một tháng đôi lần có cũng đấm ăn xôi xôi lại hỏng,Cầm bằng làm mướn mướn không này ví biết dường này nhỉ,Thời trước thôi đành ở vậy xong. Vô âm nữTác giả Hồ Xuân Hương Mười hai bà mụ ghét gì nhau,Đem cái xuân tình cắm ở rích thây cha con chuột nhắt,Vo ve mặc mẹ cái ong ai biết được vông hay chóc,Nọ kẻ chia ra cuống mấy thế thời thôi thôi cũng rảnh,Trăm năm càng khỏi tiếng làm dâu. Có thể bạn sẽ cần 🌻Những Câu Ca Dao Châm Biếm Người Phụ Nữ🌻 hay nhất Thơ Trào Phúng Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ Bên dưới là chùm Thơ Trào Phúng Của Hồ Xuân Hương Bất Hủ vô cùng đặc sắc mà bạn đọc không nên bỏ lỡ! Chế sưTác giả Hồ Xuân Hương Chẳng phải Ngô chẳng phải ta,Đầu thì trọc lốc áo không dâng trước mặt dăm ba phẩm,Vãi nấp sau lưng sáu bảy cảnh khi tiu khi chũm choẹ,Giọng hì giọng hỉ giọng hi lâu có nhẽ lên sư cụ,Ngất nghểu toà sen nọ đó mà. Đánh cờTác giả Hồ Xuân Hương Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,ốt đèn lên đánh cuộc cờ rằng đấu trí mà chơi,Cấm ngoại thuỷ không ai được tướng sĩ dàn ra cho hết,ể đôi ta quyết liệt một thiếp trắng, quân chàng đen,Hai quân ấy chơi nhau đà đã mới vào chàng liền nhảy ngựa,Thiếp vội vàng vén phứa tịnh xe hà, chàng gác hai bên,Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh lừa thiếp đương khi bất ý,em tốt đầu dú dí vô cung,Thiếp đang mắc nước xe lồng,Nước pháo đã nổ đùng ra bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu,Thua thì thua quyết níu lấy vui nước nước non non,Khi buồn lại giở bàn son quân ngà. Đưa ĐòTác giả Hồ Xuân Hương Chú lái kia ơi, biết chú rồi,Qua sông rồi lại đấm ngay bòi!Chèo ghe vừa khỏi dòng sông ngược,Đấm cọc ngay vào ngấn nước biết lên bờ đà vỗ đít,Nào khi giữa khúc đã co đò nên nghĩa sao không nhớ?Sang nữa hay là một chuyến thôi? Vịnh Đời NgườiTác giả Hồ Xuân Hương Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngàyDẫu có ngàn vàng khó đổi thayTrong núi ngàn năm cây vẫn cóDưới trần trăm tuổi dễ không aiNghĩ đường danh lợi lòng thêm chánThấy kẻ gian ngoan bụng lại đầyĐắng xót ghê thay mùi tục lụyBực mình theo Cuội tới cung mây Đá Ông Bà ChồngTác giả Hồ Xuân Hương Khéo khéo bày trò tạo hoá côngÔng Chồng đã vậy lại Bà ChồngTầng trên tuyết điểm phơ đầu bạcThớt dưới sương pha đượm má hồngGan nghĩa dãi ra cùng chị NguyệtKhối tình cọ mãi với non sôngĐá kia còn biết xuân già giặnChả trách người ta lúc trẻ trung Tát NướcTác giả Hồ Xuân Hương Đang cơn nắng cực chửa mưa tè,Rủ chị em ra tát nước đẽo chiếc gầu ba góc chụm,Lênh đênh một ruộng bốn bờ xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt việc làm ăn quên cả mệt,Dạng hang một lúc đã đầy phè. Ốc NhồiTác giả Hồ Xuân Hương Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồiĐêm ngày lăn lóc đám cỏ hôiQuân tử có thương thì bóc yếmXin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi Dệt Cửi ĐêmTác giả Hồ Xuân Hương Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phauCon cò mấp máy suốt đêm thâuHai chân đạp xuống năng năng nhắcMột suốt đâm ngang thích thích mauRộng hẹp nhỏ to vừa vặn cảNgắn dài khuôn khổ vẫn như nhauCô nào muốn tốt ngâm cho kỹChờ đến ba thu mới dãi mà Cái QuạtTác giả Hồ Xuân Hương Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừaDuyên này tác hợp tự ngàn xưaChành ra ba góc da còn thiếuKhép lại đôi bên thịt vẫn thừaMát mặt anh hùng khi tắt gióChe đầu quân tử lúc sa mưaNâng niu ướm hỏi người trong trướngPhì phạch trong lòng đã sướng chưa Đánh đuTác giả Hồ Xuân Hương Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,Trai co gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa mảnh quần hồng bay phấp phới,Hai hàng chân ngọc duỗi song xuân đã biết xuân chăng nhổ đi rồi, lỗ bỏ không! Chiếc BáchTác giả Hồ Xuân Hương Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh khoang tình nghĩa dường lai lángNửa mạn phong ba luống bập bềnhCầm lái mặc ai lăm đỗ bếnDong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnhấy ai thăm ván cam lòng vậyNgán nỗi ôm đàn những tấp tênh! Giới thiệu đến bạn đọc chùm 🌻 Thơ Hồ Xuân Hương Châm Biếm 🌻 trào phúng Áng Thơ Trào Phúng Của Tú Xương Độc Đáo Chần chừ gì nữa mà không xem ngay những Áng Thơ Trào Phúng Của Tú Xương Độc Đáo Than thânTác giả Tú Xương Kể đã ba mươi mấy tuổi rồi,Tôi ngồi tôi nghĩ cái thằng khoa hương thí không đâu cả,Ba luống vườn hoang bán sạch cứ lệ ăn đong bữa một,Vợ quen dạ đẻ cách năm thang lên hỏi ông trời nhẽTrêo ghẹo người ta thế nữa thôi? Thương vợTác giả Tú Xương Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò duyên, hai nợ, âu đành phận,Năm nắng, mười mưa, dám quản mẹ thói đời ăn ở bạcCó chồng hờ hững cũng như không! Văn tế sống vợTác giả Tú Xương Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợTiếng có miếng không, gặp chăng hay chớMặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mườiTrong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợGần xa nô nức, lắm gái nhiều traiSớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớÔng tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâuAnh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ Thế màMình bỏ mình đi, mình không chịu ởChẳng nói chẳng rằng, không than không mình thấy tớ nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?Hay mình thấy tớ sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?Thôi thôiChết quách yên mồSống càng nặng nợChữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hayDuyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡMình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng HồTớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ Sông LấpTác giả Tú Xương Sông kia rày đã nên đồng,Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô nghe tiếng ếch bên tai,Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Đánh tổ tômTác giả Tú Xương Bực chẳng nhẽ anh hùng khi vị ngộ,Như lúc đen chơi cuộc tổ tôm,Bài trạm thành cuối cánh phỗng ầm ầm,Ngồi thôi chẳng bốc quân rác có lúc không chi thì bát sách,Cũng có khi bạch định bốc yêu hồng;Cất bài lên ông lão vẫn lẩn vòng,Không đâu cả gặp kề năm bảy có ván tôm lèo lên chờ rộng,Vớ phải thằng bạch thủ phỗng tay ghê thay đen thực là đen!Sắc như mác cũng thua thằng vận mắn nhẽ hữu duyên năng tái ngộ,Bĩ cực rồi đến độ thái lai;Tiếng tam khôi chi để nhường ai,Hết bạch lại hồng, thông mãi những kẻ tay trên ban nãy,Đến bây giờ thay thẩy dưới tay ta;Tiếng bài cao lừng lẫy khắp gần xa,Bát vạn ấy người ta ai dám mới biết tổ tôm có đen thì có anh hùng vị ngộ có lo chi;Trước sau, sau trước làm gì? Năm mới chúc nhauTác giả Tú Xương Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhauChúc nhau trăm tuổi bạc đầu này ông quyết đi buôn cối,Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu. Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàuTrăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu?Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc,Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu. Lẳng lặng mà nghe nó chúc sangĐứa thì mua tước, đứa mua này ông quyết đi buôn lọng,Vừa bán vừa la cũng đắt hàng. Lẳng lặng mà nghe nó chúc conSinh năm đẻ bảy được vuông phường chật hẹp, người đông đúc,Bồng bế nhau lên nó ở non. Bắt chước ai ta chúc mấy lờiChúc cho khắp hết ở trong quan, sĩ, thứ, người muôn nước,Sao được cho ra cái giống người. Đừng vội bỏ qua ❤️️ Thơ Châm Biếm Đàn Ông ❤️️ Bội Bạc, Đa Tình Thơ Trào Phúng Nguyễn Khuyến Chọn Lọc Nhất định đừng bỏ lỡ tuyển tập Thơ Trào Phúng Nguyễn Khuyến Chọn Lọc Làm Ruộng Chốn QuêTác giả Nguyễn Khuyến Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất thuế quan Tây, phần trả nợ,Nửa công đứa ở, nửa thuê trưa dưa muối cho qua bữa,Chợ búa trầu chè chẳng dám kiệm thế mà không khá nhỉ,Bao giờ cho biết khỏi đường lo? Cua Chơi TrăngTác giả Nguyễn Khuyến Vằng vặc đêm thu ánh xế chừng,Ham thanh, cua mới muốn chơi mai lách ngược qua dòng biếc,Ghé yếm bò ngang nhởn bóng quế chờn vờn hương mới bén,Vườn đào thoang thoảng gió như mai cá nước cua vui phận,Trăng muốn tìm cua, dễ được chăng? Anh giả điếcTác giả Nguyễn Khuyến Trong thiên hạ có anh giả điếc,Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!Chẳng ai ngờ “sáng tai họ, điếc tai cày”,Lối điếc ấy sau này em muốn trung đàm tiếu, nhân như mộcDạ lí phan viên, nhĩ tự vườn sau, khi ao trước; khi điếu thuốc, khi miếng chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu;Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếcĐiếc như thế ai không muốn điếc?Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!Hỏi anh, anh cứ ậm à. Chợ ĐồngTác giả Nguyễn Khuyến Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,Năm nay chợ họp có đông không ?Dở trời, mưa bụi còn hơi rượu, tường đền được mấy ông ?Hàng quán người về nghe xáo xác,Nợ nần năm hết hỏi lung ba ngày nữa tin xuân trúc nhà ai một tiếng đùng. Hoài CổTác giả Nguyễn Khuyến Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,Sự đời đến thế, thế thời thôi!Rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm,Nước độc ma thiêng mấy vạn rỗng ruột gan trời đất cả,Phá tung phên giậu hạ di thôi đến thế thời thôi nhỉ,Mấy trắng về đâu nước chảy xuôi. Chế Ông Đồ Cự LộcTác giả Nguyễn Khuyến Văn hay chữ tốt ra tuồng,Văn dai như chão, chữ vuông như thầy như vẻ con tôm,Vẻ tay ngoáy cám, vẻ mồm húp lịch sự ai bằng thầy Cự Lộc,Vẻ cô đầu nói móc có vài câuAnh chẳng sang, mà cũng chẳng bao ních, rận bâu quanh chiếu;Khăn nhuộm lờ lờ mùi nước điếu,Nón sơn không méo cũng không vải thô, ngại giặt ngả màu son,Giày cóc gặm, nhặt dây đàn khâu lưu ấy, mà tình tính ấy,Đến cô đầu, vẫn thấy lả lơi bông,Xinh thay diện mạo anh hùng! Chế Học Trò Ngủ GậtTác giả Nguyễn Khuyến Trò trẹt chi bay học cạnh thầy,Gật gà gật gưỡng nực cười thay!Giọng khê nồng nặc không ra tiếng,Mắt lại lim dim nhắp đã nổi đâu đây la liệt đảo,Ma men chi đấy tít mù thường bắt chước Chu Y đóQuyển có câu thần vậy gật ngay. Chừa RượuTác giả Nguyễn Khuyến Những lúc say sưa cũng muốn chừa,Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa nên nỗi không chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa. Gửi thêm đến bạn tham khảo 🌼Những Câu Thơ Nói Về Trọng Nam Khinh Nữ🌼 100+ Câu Ca Dao Chùm Thơ Trào Phúng Của Tú Mỡ Ấn Tượng Tiếp tục bài viết là Chùm Thơ Trào Phúng Của Tú Mỡ Ấn Tượng Khóc người vợ hiềnTác giả Tú Mỡ Bà Tú ơi! Bà Tú ơi!Té ra bà đã qua đời, thực ư ?Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác,Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm baoTỉnh dậy, nào thấy đâu nào,Nào đâu bóng dáng ra vào hôm maịĐâu bóng dáng con người thùy mị,Tuy tuổi già xấp xỉ bảy mươi,Vần còn khỏe mạnh, vui tươi,Le te, nhanh nhẹn như thời xuân sau lưng vô tình cứ ngỡMột cô nào thiếu nữ thanh mà cái chết bất thầnCướp ba đi mất, vô ngần xót xa!Kể từ thuở đôi ta kết tóc,Thấm thoát gần năm chục năm quaThủy chung chồng thuận vợ hòa,Gia đình hạnh phúc thật là ấm êm. Tôi được bà vợ hiền thuần thục,Cảm thấy mình tốt phúc bao nhiêu!Đôi ta cùng một cảnh nghèo,Đạo chồng vợ lấy chữ yêu làm khi giường bệnh đã nằm,Bà còn thủ thỉ tình thâm thương chồng“Tôi mà chết thì ông sẽ khổ,Vì, cứ theo câu cổ ngữ taXưa nay con cái nuôi chaCũng không chu đáo bằng bà nuôi ông.”Bà ơi, hãy dầu lòng yên dạ,Giấc nghìn thu cho th?o vong hồn,Bà đi, đã có dâu con,Một lòng phụng dưỡng, chăm nom bố già. Tôi có khổ, âu là chỉ khổVì thiếu bà, nhà cửa vắng tanh,Khổ khi thức giấc tàn canhBên giường trống trải một mình nằm nhớ lại sớm trưa ngày trướcPha ấm trà chén nước mời tôi chẳng thấy bà đâu,Bên bàn thờ nhắp chén sầu đầy vơi… Khổ những lúc ra sân mê tỉnhNgắm vườn nhà thấy cảnh thênh thang,Mà bà khuất núi cho đang,Quả cau tươi, lá trầu vàng ai xơi ?Khổ trông thấy cái cơi còn đó,Đã khô trầu, khô vỏ, khô thước đất đã vùi sâuCặp môi cắn chỉ ăn trầu đỏ tươiNgẫm cảnh già cuộc đời sung sướng,Tưởng vợ chồng còn hưởng dài lâuKhông ngờ con tạo cơ cầu,Bà đi, để tủi dể sầu cho tôi Ôi! Duyên nợ thế thôi là hết,Năm mu_ơi năm thám thiết yêu nhau!Bà về trước, tôi về sauThôi đành tạm biệt, nuốt sầu gượng vuiBà đi rồi nhưng tôi phải ở,Công việc đời còn dở tí thôi,Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi,Về nơi cực lạc, lại tôi với bà… Và ông già trẻTác giả Tú Mỡ Ngược đời có lắm cụ già nuaNhí nhảnh làm ra bộ tuổi thơĐầu tóc nhuộm đen hòng trẻ lạiRâu ria cạo trụi rõ…trai lơĐua chơi ra phết ông còn khoẻLàm việc lơ mơ, cụ kiếu giàThấy gái y như mèo thấy mỡNăm thê bảy thiếp cũng không vừa Các ông nghị đi xem đồn điền di dânTác giả Tú Mỡ Người ta mời các nghị viên,Lên Yên Bái xem đồn điền di quan Công sứ đại thần,Mới về nhà “xẹc” ân cần thết thường đặc biệt An NamCỗ tuy lòng dấm, món làm cũng là lòng lợn mắm tôm,Nào là bò tái chấm tương điểm dê nướng chả thơm lừng,Tiết dê pha rượu vô cùng bổ hầm nhừ biến cả xương,Thịt nhồi mộc nhĩ nấm hương ngon bàn đủ cả tam sinh,Rượu ngon nhắm tốt thoả linh các nay được dịp trổ tài,Với thời khí vụng ăn thời rất ngon thức thức sẵn bày,Bát này đĩa nọ hết bay rầm rầm!Tiệc tan khi đã triệt mâm,Mặt to tai lớn đỏ hăm hồng ngài chếnh choáng lao đao,Ra ga bước thấp bước cao lên bàn một lũ theo hầu,Nước chanh, nước đá, chè Tầu, rượu giờ men ngấm hao ghê,Sẵn đồ giã rượu hả hê dạ hầu tíu tít luôn tay,Các “ông dân” cũng ngớt say tỉnh xem công cuộc di dân,Hẳn nhìn mọi sự bội phần lớn về nhớ… bữa say no,Ghi lòng tạc dạ tái bò chả dê. Khoe lườiTác giả Tú Mỡ Anh em chớ bảo ta lười,Làm việc cho hay phải thức hãy còn chơi cho phỉ chí,Hạ mà cất nhắc tất nhoài sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,Đông lại hầm chăn tạm nghỉ đến xuân sang ta sẽ liệu,Anh em chớ bảo ta lười. Sư cô ở cữTác giả Tú Mỡ Chùa Yên Lạc, phủ Khoái ChâuTên sao khéo đặt nên câu hữu tình!Có bà sư trẻ xinh xinh,Tuổi chừng ba chục xuân xanh đang người bầu bĩnh dễ ưa,Nõn nà tay ngọc, mởn mơ má duyên lộ vẻ mặn nồng,Sư bà vẫn muốn hết lòng chân rồi một sáng mùa thu,Người ta thấy vị ni cô sượng đeo cái trống cà rùng,Đến nhà thương để tìm phòng khai ngài Bồ Tát, Thích Ca,Độ trì phù hộ sư bà trẻ ra một cậu sư con,A Di Đà Phật! Mẹ tròn con xong từ giã nhà thương,Gởi con nhà nước lên đường lại lòng tu… hú, tu… mu,Tại miền khoái lạc, cảnh chùa yên thương rồi cứ quen mùi,Sẽ năm một, ba năm đôi xòn năm đẻ bảy sư con,Càng ngày quả phúc càng tròn hơn ngày mùng tám tháng tư,Bụt còn đẻ, nữa là sư?! Ngượng gì! Tứ đại của bà lớnTác giả Tú Mỡ Vừa rồi thống Diệm mới phong choThím nó tức là vợ chú NhuCái tước “Cộng hoà bà lớn nhất”Để dương danh giá của… bà to…Một là cái bọng của bà to,Phề phệ y như cái bọng bòVắt khố dân cày bà ních bẫmBao năm bèo bổ tức cùng là cái mặt của bà toPhèn phẹt y như mặt hổ phùBác thống cho ra làm đại diệnCòn trơ hơn thớt, cộp hơn là cái miệng của bà toXoạc tận mang tai tựa miệng sòQuàng quạc kêu gào xui phụ nữBán mình đăng lính với đi là “nhân vị” của bà to,Việc “ngoại giao” mần giúp bác Ngô,Rất được vừa lòng quan chủ MỹNgày đêm khăng khít bợ cơ nó làm to, thím cũng toBốc nhau thối hoắc nhật nhiều tròĐúng như cửa miệng người ta mỉa“Một đứa làm quan cả họ nhờ!” Ông trẻ giàTác giả Tú Mỡ Ngược đời! Có lắm hạng “ông ranh”Đạo mạo làm ra mặt lão thành!Trước mắt long lanh đôi kính trắng,Dưới cằm lún phún sợi râu ngồi khệ nệ oai nghiêm giả,Ăn nói màu mè đạo đức tuênh!Động hé môi ra là…thở hắt,Than cho thế thái với nhân tình. Gây quanTác giả Tú Mỡ Mỗi năm nhà nước mở khoa thiĐể kén trong trung bắc lưỡng kỳLấy mặt sỏi sành ra giúp việcBổ làm tập sự ngạch quan chiMỗi năm các cậu lớp tân khoaSung sướng bằng xưa đỗ thám hoaTuy chẳng vinh quy, cờ võng lọngCũng là lừng lẫy khắp gần xaQuảng cáo công không, các nhật trìnhĐăng tên, đăng tuổi, lại đăng hình,Làm như các cậu “quan non” ấyLà những kỳ đồng mới tái sinhTrong làng trưởng giả những cô nàoSẵn mỏ nhưng chưa có kẻ đàoMấp máy hòng lên bà lớn tắtMơ màng của dẫn lại tay traoCụ thượng Quỳnh ta cũng sướng ranXoa tay hỉ hả cái gan vàngMừng cho nước Việt còn cơ kháVì chẳng bao giờ tiệt giống quan. Còn sayTác giả Tú Mỡ “Nhắn bác Tản Đà”Đã lâu, bác mới ra đời,Tưởng rằng gột óc theo thời duy ngờ bác vẫn say lăn,Lè nhè vẫn giọng thơ văn trái còn mộng mị, mơ hồ,Người đời vui sống, bác ngờ chiêm bao,Người đời hoạt động xôn xao,Bác vờ triết lý thanh cao bác lười!Ngồi dưng nổi bệnh chán buồn trời gió, rồi trời lại mưa!Giải buồn chén tít say sưa,Chai con chai bố vẫn chưa hết buồn!Rượu vào, rồng rổng thơ tuôn,Miệng ngâm sặc sụa hơi cồn, mùi men,Bác rằng khách tục bon chen,Lao tâm, lao lực, thấp hèn bác rằng bác dở, bác ương,Giả danh ẩn dật là phường bỏ rằng chữ thọ quí danh, hão cả! Ham gì sống dai?Đời rằng thuận với lẽ trời,Sống mà gánh vác việc đời mới như sống để mà… ai vất vưởng bấy nay làm gì?Rung đùi, rượu nốc tì tì,Người ta tỉnh, bác li bì vẫn mê! “Sư cậu” đi hát ả đàoTác giả Tú Mỡ Có hai “sư cậu” chùa Bà,Ăn no rửng mỡ la cà rong chay mãi cũng chán đời,Nên sư phá giới nếm mùi phong mò đến xóm hồng lâu,Ở Ngã Tư Sở, cô đầu tìm ân ái, tượng mày ngài,Sư đang tụng niệm lả lơi với chầu tom chát đang xinh,Bỗng thầy chánh tổng thình lình tạt trông bóng sãi kề hoa,Bạch sư hổ lửa “Đâu mà đến đây?”Sư rằng “Chơi gió, chơi mây,Nhỡ đường vào tạm chốn này trú chân,Rượu chay nhấp chén tẩy trần,Hát chay di dưỡng tinh thần miên man.”Thầy chánh đe giải lên quan,Lưỡng sư xanh mắt, kêu van, nằn tay, rồi lạy, rồi quỳ,Sì sà sì sụp như kỳ dâng “Nay trong cuộc tiêu dao,Ma vương đưa lối lạc vào xóm này chót dại xin tha,A di đà phật! Đến già xin tu!”
A. Nguyên nhân xuất hiện hiện tượng trào phúng Hồ Xuân Hoàn cảnh thời đại3. Cái tôi Hồ Xuân Hương B. Những đối tượng trào phúng Hồ Xuân HươngC. Ngôn ngữ trào phúng Hồ Xuân Hương. Hiện tượng trào phúng Hồ Xuân Hương A. Nguyên nhân xuất hiện hiện tượng trào phúng Hồ Xuân Hương. I. Hoàn cảnh thời đại 1. Sự sụp đổ của xã hội phong kiến làm nảy sinh những “quái thai” của xã hội, trở thành đối tượng của bút pháp trào phúng. – Tố Hữu đã từng nhận xét “Cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi tới của văn chương”, văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống, hiện thực cuộc sống chính là nguồn chất liệu dồi dào làm nên nội dung tư tưởng cho tác phẩm. Do vậy, các hiện tượng văn học, dù muốn hay không cũng đều chịu sự tác động của thời đại. – Bối cảnh lịch sử Việt Nam thế XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, với sự suy tàn của giai cấp thống trị đã làm nảy sinh trong xã hội những kiểu người lố bịch, xấu xa, giả dối, đã chà đạp lên các giá trị truyền thống. Chính những mẫu người này đã trở thành đối đả kích của bút pháp trào phúng, đặc biệt là bút pháp trào phúng của Hồ Xuân Hương. – Thế kỉ XVIII – XIX là giai đoạn khủng hoảng sâu sắc và dữ dội của những mâu thuẫn chất chưa từ trong lòng xã hội phong kiến Việt Nam. – Khởi đầu là những ông vua “Khoanh tay rũ áo” như Lê Dụ Tông, Lê Thuần Tông, Lê Ý Tông, Lê Hiển Tông, những ông chúa ăn chơi hưởng lạc như chúa Trịnh Cương, Trịnh Giang, Trịnh Sâm. – Chế độ phong kiến phát triển đến đỉnh cao nhất dưới triều Lê Thánh Tông XV thì dần dần đi vào giai đoạn khủng hoảng, suy tháoi. Nội chiến phong kiến Lê – Mạc; Trịnh – Nguyễn phá hoại nguyên trọng sự thống nhất đất nước. – Thế kỉ XVIII nọi chiến không còn, nhưng thỉnh thoảng có một vài mâu thuẫn đáng kể giữa Lê, Trịnh, hoặc ngay nội bộ họ Trịnh cũng có những lục đục tranh quyền đoạt vị. Đàng Trong nạn quyền thần Trương Phúc Loan cũng gây chém giết đổ máu không ít .Đất nước không nơi đâu yên ổn. – 1789, phong trào Tây Sơn – Nguyễn Huệ nổ ra với sức mạnh chưa từng thấy đã đạp tan tập đoàn vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, nhà Nguyễn ở Đàng Trong thống nhất đất nước, rồi sau đó tiếp tục đánh đuổi quân Xiêm, quân Thanh. – 1802, nhà Nguyễn dựa vào thế lực bọn địa chủ và sự giúp sức của nước ngoài lật đổ triều Tây Sơn còn non yếu, dựng nên một chính quyền cực kì phản động so với nhà Lê trước đó. * Những biểu hiện của sự khủng hoảng + Lĩnh vực chính trị ngoại giao giai cấp phong kiến càng trở nên phản động .Lê Chiêu Thống đang tâm rước giặc ngoại xâm về giày xéo quê hương đất nước. + Lĩnh vực giáo dục, thi cử tệ hại. Có thể dùng tiền mà mua chức vị “cứ tứ phẩm trở xuống, ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc. Còn những người chân trắng mà nộp 2800 quan thì được bổ tri phủ, 1800 quan thì được bổ tri huyện” Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim + Chính sách thi cử đã làm cho xã hội trở nên nhiễu loạn. Đó là một xã hội mà người có tiền là có quyền cai trị, đạo đức và tài năng nghiễm nhiên bị xem thường ,mọi mặt trong đời sống xã hội đều suy thoái trầm trọng, quan lại xu nịnh, tàn bạo, trở thành tai họa cho nhân dân. + Các nhà cầm quyền phong kiến chỉ biết tranh giành quyền lợi và lao vào cuộc sống hưởng thụ. Kinh tế kiệt quệ, nông nghiệp không phát triển là hậu quả của những cuộc phân tranh và vì thế nạn đói tràn lan. Người dân phải gánh chịu hậu quả ghê gớm của gần mọt thế kỉ chiến tranh, rồi lại còn phải oằn lưng trước gánh nặng sưu thuế cho bạn quan tham ô lại ,đã đau thương vất vả lại trăm nghìn đau thương vất vả hơn nữa. 2. Sự biến chuyển hệ tư tưởng phong kiến và sự xuất hiện của tầng lớp thị dân đánh dấu sự xuất hiện mãnh mẽ cái tôi cá nhân trong văn học. Thế kỉ XVII, do sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa giản đơn và do mở rộng việc buôn bán với các thương nhân phương Tây, Trung Quốc và nhật Bản, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp mà sự lưu thông trao đổi hàng hóa đã được tăng cường và tiền tệ đã bắt đầu có vai trò quan trọng trong đời sống .Xuất hiện tầng lớp mới tầng lớp thương nhân, thợ thủ công… Sinh hoạt mua bán đã li khai quan hệ sản xuất phong kiến. Cuộc sống của tầng lớp này là đi đây đi đó tiếp xúc nhiều kể cả với người ngoại quốc nên tư tưởng của họ tương đối tự do phóng túng hơn những ng khác . Họ bắt đầu thấy lễ giáo phong kiến là lạc hậu, Nho giáo phong kiến là trái tự nhiên, là kiềm kẹp, bất công với con người. Sự có mặt của tầng lớp thự dân cũng như sự phát triển của đô thị phong kiến thời kì này là mầm mống của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, và cũng là mọt trong số những nhân tố trực tiếp tác động đến xu hướng chống phong kiến đòi quyền sống, đòi quyền tự do cá nhân và quyền thể hiện bản ngã, khẳng định cá tính của con người xã hội lâu nay bị đè nén, bức bối nặng nề . Đây chính lànhân tố góp phần làm thay đổi ý thức, tư tưởng xã hội. Sự thay đổi ý thức, tư tưởng xã hội thể hiện ở sự phá sản chưa từng thấy của hệ ý thức phong kiến Nho giáo Bao nhiêu nguyên tắc đều bị vi phạm trắng trợn trước hết từ trong cung vua phủ chúa, nơi ngự trị những khuôn vàng thước ngọc của chính quyền phong kiến “tam cương, ngũ thường” của Nho giáo bị suy sụp một cách thảm hại tôi giết vua, con hại cha, tớ phản thầy, anh em giết lại nhau vì ngôi báu, tước vị… Sự khủng hoảng về lí tưởng của tầng lớp nho sĩ phong kiến hầu hết các nho sĩ quý tộc có tài năng, đạo đức chân chính đều mang một tâm trạng bế tắc, cho thấy một sự khủng hoảng về lí tưởng Nguyễn Du, Cao Bá Quát… Thời kì này bắt đầu thấy bóng dáng cái tôi của cá tính trong tư cách ngang tàng, phóng túng Phạm Thái, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ… Tóm lại, sự khủng hoảng ý thức, cộng với sự xuất hiện của tầng lớp thị dân đã tạo điều kiện thức tỉnh cái tôi cá nhân khá mạnh mẽ. Sự thức tỉnh cái tôi cá nhân, cùng với việc nhận thức được giá trị bản thân, khao khát đòi hỏi sự tự do, đã nhận ra được bản chất kìm kẹp con người của hệ tư tưởng phong kiến, đồng thời cảm thấy khó chịu, bất mãn trước những loại người xấu xa, đồi bại – những sản phẩn của mọt xã hội đang trên đà sụp đổ. Đó chính là cơ sở cho sự phát triển mạnh mẽ của bút pháp trào phúng vào thời kì này. 3. Cái tôi Hồ Xuân Hương Bên cạnh nguyên nhân khách quan là bối cảnh xã hội, thì hiện tượng trào phúng của Hồ Xuân Hương còn xuất phát từ chính bản thân tính cách của nữ sĩ này. Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ khát khao sống, là một con người tài hoa, học rộng biết nhiều nhưng cuộc đời có lắm bi kịch. Trước cảnh xã hội hỗn loạn với nhiều biến tướng, con người ấy làm sao có thể nhắm mắt làm ngơ, làm sao có thể để yên cho những điều sai trái cứ mặc nhiên hoành hành. Cái tôi khao khát sống mãnh liệt tài hoa của Hồ Xuân Hương, chính là nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự xuất hiện của hiện tượng trào phúng Hồ Xuân Hương. Với bà, thơ trào phúng, trước hết là sự giải tỏa nỗi lòng, sau đó còn là một thứ vũ khí để đấu tranh với các thói hư tật xấu, là tấm khiên để bảo vệ những người phụ nữ khác trong xã hội. Cái tôi Hồ Xuân Hương trong thơ biểu hiện cũng rất đa dạng Cái tôi ấy khẳng định mình ở ngôi thứ nhất, bộc lộ thái độ riêng và cách ứng xử của bản thân “Này, này chị bảo cho mà biết” Trách Chiêu Hổ “Thiếp bén duyên chàng có thể thôi” Khóc Tổng Cóc “Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?” Đề đền Sầm Nghi Đống Hiện tượng xưng tên là một hiện tượng khá lạ và độc đáo trong thi pháp trung đại, tách khỏi cái phi ngã của thi pháp để khẳng định cái tôi cá nhân “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi” Mời trầu “Thân này” cũng được sử dụng nhiều “Tài tử văn nhân ai đó tá? Thân này đâu đã chịu già tom!” “Thân này ví biến dường này nhỉ Thà trước thôi đành ở vậy xong” Khi bà hóa thân vào tình cảnh của người khác, xưng tôi nhưng là nói hộ tâm trạng của người khác “Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa Mảnh tình một khối thiếp xin mang” Không chồng mà chửa “Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo Dau cầu thiếp biết trao ai nhẽ…” Bỡn bà lang khóc chồng Khi bà hóa thân vào sự vật thì cái tôi cũng hiện lên với những đặc tính, tính chất của sự vật “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” Bánh trôi nước “Thân em như quả mít trên cây” Quả mít “Quân tử có thương thì bóc yếm Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi” Ốc nhồi Nhìn chung, cái tôi Hồ Xuân Hương biểu hiện trong thơ có những đặc điểm chung như sau Thứ nhất, Dễ đồng cảm với những đối tượng tầm thường, nhỏ mọn như loài ốc, quả mít, bánh trôi nước, cái quạt, đồng tiền hẻm . Ở đây sự đồng cảm có hai mặt, vừa bộc lộ nỗi buồn thân phận nhỏ bé, bi kịch, những khao khát chưa được thỏa nguyện… nhưng từ đó lại làm bật lên “phép thắng lợi tinh thần” ngoa dụ sức mạnh tiềm ẩn và phẩm giá của các sự vật được miêu tả, cũng như từ đó làm bật lên phẩm giá của con người. Thứ hai, Dễ chạnh lòng với những cảnh ngộ trớ trêu, không như ý, thậm chí đắng cay, chua chát Tâm trạng đau thương trong ba bài Tự tình, khát khao hạnh phúc trong Mời trầu, thân phận hẩm hiu của người phụ nữ Làm lẽ, Không chồng mà chửa, cảnh ngộ của những đàn bà góa bụa… Có sự chú ý đặc biệt sắc sảo đến những “mặt người dị dạng” của xã hội lũ quan lại, sư hổ mang lũ học trò dốt, những kẻ giả dối, tàn nhẫn… Vịnh cái quạt, Thiếu nữ ngủ ngày, Mắng học trò dốt – I, II… B. Những đối tượng trào phúng Hồ Xuân Hương Xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX đã đánh dấu sự mục ruỗng của xã hội phong kiến từ trong ra ngoài, kéo theo đó là sự xuất hiện của những “quái thai xã hội” – những kiểu người dị dạng, giả dối, đạo đức giả, chà đạp lên những giá trị truyền thống tốt đẹp. Những kiểu người này chính là đối tượng đả kích chính của bút pháp châm biếm. Bằng cái nhìn sắc xảo bao quát cuộc sống, ngòi bút châm biếm Hồ Xuân Hương trở nên giàu sức chiến đấu khi đã vạch trần, tố cáo, đả kích đủ mọi tầng lớp tiêu cực trong xã hội. Ngòi bút ấy hướng đến trước hết là giai cấp thống trị, cụ thể là bọn vua quan phong kiến. Sự suy tàn của xã hội phong kiến có gốc rễ từ sự thối nát, mục ruỗng từ bọn giai cấp thống trị. Đó là những tên vua ăn chơi sa đọa, không màng đến nhân dân. Đó là bọn quan tham ô, vô lại, làm nhũng nhiễu cuộc sống của người dân vô tội. Cái cười cợt của Hồ Xuân Hương với bọn vua chúa, quả thực rất sâu cay Mười bảy hay là mười tám đây Cho ta yêu dấu chẳng dời tay. Mỏng dày từng ấy, chành ba góc Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay Càng nóng bao nhiêu thời càng mát, Yêu đêm chưa phi lại yêu ngày. Hồng hồng má phấn duyên vì cậy. Chúa dấu vua yêu một cái này. Vịnh cái quạt II Thủ pháp song quan gắn với yếu tố cái tục đã tỏ ra là một thủ pháp châm biếm xuất sắc. Ở đây, những cánh cửa ẩn nghĩa hiện ra, hình thành trong tâm trí người đọc hai hình ảnh một hình ảnh của cái quạt giấy, một hình ảnh cơ thể người thiếu nữ. Mười bảy hay mười tám, ấy là số nan của quạt giấy, nhưng cũng là ẩn dụ cho tuổi xuân của người thiếu nữ. “Cay” lại là cái suốt của quạt giấy, hải đầu có mảnh kim loại nhài quạt hình tròn để chốt các nan lại ở hai nan cái, nhưng cũng gợi lên những liên tưởng về cơ quan sinh dục của con người. Đến đây người đọc không khỏi có cái cười khoái trá. Hóa ra, cái vua thích, chỉ là cái thứ “mỏng dày từng ấy, chành ba góc”, cũng là cái“Chành ra ba góc da còn thiếu/Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.” trong bài Vịnh cái quạt I. Cách diễn đạt “Chúa dấu vua yêu” với sự khẳng định “một cái này” đầy sắc sảo, bén nhọn. Vua chúa chỉ yêu một thứ ấy, có thèm để tâm đến những thứ khác đâu? Trong mắt chúa, trong mắt vua, giang sơn, xã tắc, cũng chẳng thể bằng cái vật mỏng da thừa thịt ấy! Thế chẳng phải là mục ruỗng, là suy đồi hay sao? Mục ruỗng, suy đồi từ tận gốc rễ. Mỗi xã hội đều cần một hệ tư tưởng để làm công cụ cho giai cấp thống trị. Trải qua hơn ba thế kỉ, hệ tư tưởng Nho giáo của xã hội phong kiến cũng đã bộc lộ cả những mặt mạnh, mặt yếu của mình. Đến thời kì Hồ Xuân Hương sống, hệ tư tưởng Nho giáo đã sụp đổ từ tận gốc, bởi chính những kẻ rao giảng, truyền bá nó. Bọn hiền nhân quân tử đã phạm một cách trắng trợn vào những đạo nghĩa thánh Hiền. Sự rao giảng của chúng trở thành thói đạo đức giả đáng khinh. Và tất nhiên, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương không bỏ qua chúng Mùa hè hây hẩy gió nồm đông, Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng. Lược trúc lỏng cài trên mái tóc, Yếm đào trễ xuống dưới nương long. Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm, Một mạch Đào Nguyên suối chửa thông. Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt Đi thì cũng dở ở không xong. Thiếu nữ ngủ ngày Bài thơ trước hết là sự tôn vinh vẻ đẹp cơ thể nữ. Đó là thứ vẻ đẹp căng tràn sức sống, thể hiện sự trân trọng và nhận thức sâu sắc về giá trị người nữ. Cái hay của Hồ Xuân Hương là dựa vào cái vẻ đẹp đáng trân trọng ấy để tạo ra một thứ tình huống nghịch lý, trớ trêu, thử thách bọn “quân tử hiền nhân”. Và rõ ràng, khi vương vào bẫy, cái điệu bộ của kẻ quân tử thật buồn cười “Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt Đi thì dở ở cũng không xong” Thơ Hồ Xuân Hương là thơ Việt hóa tối đa, mỗi khi sử dụng từ Hán Việt thì thường có hàm ý mỉa mai. Ở đây, chữ “quân tử” càng trang trọng bao nhiêu, ngạo nghễ bấy nhiêu, khi đặt vào tình huống này, lại càng nhục nhã, ê chề bấy nhiêu. Hiền nhân quân tử đầu đội trời chân đạp đất theo như sách Thánh hiền, lại “dùng dằng đi chẳng dứt” – điệu bộ lấm lét như một tên trộm. Câu thơ như cái nhìn cười cợt sắc bén của Hồ Xuân Hương khi đã đánh trúng vào “tim đen” của chúng, lí giải được cái tâm tính tầm thường của chúng. Tình thế này là do ai? Chẳng phải do chính thói đạo đức giả của chúng hại chúng đấy sao? Quả là nữ sĩ họ Hồ đã ra một cú “gậy ông đập lưng ông” hết sức cao tay, tài tình. Bên cạnh bọn “hiền nhân quân tử” đạo đức giả, ngòi bút Hồ Xuân Hương còn nhắm đếm một đối tượng khác cũng thuộc giới trí thức Nho học Bọn học trò dốt. Chính sách cho phép dùng tiền để mua chức vị của triều đình, “cứ tứ phẩm trở xuống, ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc, còn những người chân trắng mà nộp 2800 quan thì được bổ tri phủ, 1800 quan thì được bổ tri huyện” Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim, đã khiến cho việc giáo dục, thi cử thời kì này trở nên hỗn loạn. Chỉ cần có tiền là có thể mua được chức, quyền, đồng tiền chiếm thế thượng phong thâu tóm tất cả, các giá trị đạo đức bị chà đạp, bọn quan lại vì thế càng nhũng nhiễu dân lành, nhất là bọn quan hoạn. Cũng trong tình cảnh thi cử rối ren ấy, người có tài thì thì bị đánh rớt oan, còn bọn bất vài nhưng có tiền thì được xướng danh bảng vàng. Chính điều này đã làm xuất hiện một loại người “quái thai” trong xã hội Bọn học trò dốt, dốt nát nhưng lại tự cao tự đại, vẫn cứ tự mãn vào con chữ của mình, tự mãn rằng mình là rường cột nước nhà. Với loại người này, Hồ Xuân Hương vừa ghét, vừa coi thường. Nhóm bài thơ “Mắng học trò dốt” đã thể hiện rõ cái nhìn khinh khi của nữ sĩ với lũ học trò ngu dốt nhưng kiêu căng, ngạo mạn. Trong các giai thoại tương truyền về Hồ Xuân Hương, có ý kiến cho rằng bài “Mắng học trò dốt – I” ra đời khi Hồ Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, đang lững thững bên bờ hồ Tây thì thấy mấy thần khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau. Rồi các thầy giở giọng chớt nhả ra trêu ghẹo nàng. Có thầy lại hứng trí tung cả chữ nghĩa ra nữa. hồ Xuân Hương thấy họ trêu ghẹo thì vẫn im lặng, nhưng đến khi nghe cái thơ thẩn nửa mùa ấy thì không nhịn được nữa, nàng mới quay lại, đọc dồn cho các thầy một bài thơ rằng “Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ Lại đây cho chị dạy làm thơ. Ong non ngứa nọc châm hoa rữa, Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!” Bấy giờ, các thầy khóa nghe giọng thơ thì biết ngay là Hồ Xuân Hương. Riêng thầy đọc thơ lúc nãy thì thẹn chín người. Bài “Mắng học trò dốt II” cũng ra đời trong một hoàn cảnh thú vị không kém. Cũng một lần đi thăm chùa Trấn Quốc, Hồ Xuân Hương nhìn lên trên vách chuông, thấy bài thơ của một anh học trò nào đó đề lên. Câu kẹo ý tứ chán mớ đời. Thế mà cũng vác bút, vạch hàng để khoe ngu với khách vãng lai. Chẳng nói chẳng rằng, cô đề luôn một bài thơ vào khoảng trống bên cạnh “Dắt díu nhau lên trước cửa đền Cũng đòi học nói, nói không nên. Ai về nhắn nhủ phường lòi tói, Muốn sống đem vôi quét trả đền.” Điểm chung đặc biệt giữa hai bài thơ đó là sự ứng tác gần như tức thời, “xuất khẩu thành thơ” của nữ sĩ. Đó là tài năng thiên phú, nhưng đồng thời đó cũng là sự bùng phát của cảm xúc khinh bỉ, coi thường đối với đối tượng châm biếm. Trong những bài thơ này, Hồ Xuân Hương luôn xuất hiện như một vị bề trên, xưng “chị”, với giọng điệu xách mé, khinh khi của một kẻ ở vị trí cao hơn. Trong mắt bà, lũ học trò dốt chẳng qua chỉ là “lũ ngẩn ngơ”, “phường lòi tói”, cái thơ văn chữ nghĩa của chúng chẳng qua là trò trẻ con, ngựa non háu đá “Ong non ngứa nọc châm hoa rữa/Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!”, chẳng qua chỉ là thứ học đòi kém cỏi “Cũng đòi học nói, nói không nên”. Bài thơ ngắn gọn, xúc tích, ứng khẩu thành thơ, ấy vậy mà giọng điệu ngạo nghễ, cái nhìn khinh khi của một kẻ có tài chiếu xuống bọn bất tài, cũng sắc bén và có sức đả thương như dao, kiếm, khiến đối tượng châm biếm nhục nhã, ê chề, nhưng đành tâm phục, khẩu phục. Là một cái tôi khao khát sống mãnh liệt, Hồ Xuân Hương ghét cay ghét đắng những kẻ đạo đức giả, kìm hãm quyền tự do của con người như bọn “hiền nhân quân tử”, đồng thời, nàng cũng ghét cả những kẻ tự tách mình ra khỏi đời sống, hay nói đúng hơn, là lấy cớ đi tu để tách mình ra khỏi đời sống, nhưng bên trong thì vẫn đầy những ham muốn đồi bại, dung tục, làm xấu mặt tôn giáo mà mình đang phụng sự. Về đề tài sư hổ mang, tiếng thơ Hồ Xuân Hương cũng có những dòng cười cợt gay gắt, chua cay. Nàng đã tài tình dựng lại một bức tranh chốn tu hành hỗn tạp, rối loạn, không ra thể thống gì “Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà. Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.” Món đồ dâng lên cũng kiếng thì bày la liệt như thể món hàng ngoài chợ. Người tu hành thì không có dáng vẻ thanh tịnh của kẻ chân tu, mà lại thập thò, lén lút, nấp sau lưng “sáu bảy bà”. Đặc biệt không gian hỗn độn được đặc tả tài tình ở hai câu thơ cuối “Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha” Tiu cảnh, chũm chọe là hai thức nhạc cụ cổ truyền của Việt Nam. Tiu Cảnh là nhạc khí tự thân vang của dân tộc Việt, gồm 2 chiếc thanh la cỡ nhỏ làm bằng đồng thau, đường kính khoảng 10 cm, một chiếc thành thấp, một chiếc thành cao, với hai âm cao thấp cách nhau quãng nǎm đúng. Tiu cảnh được treo trong hai vòng tròn của một chiếc khung có tay cầm bằng gỗ. Khi biểu diễn nhạc công tay trái cầm tiu, tay phải cầm que tre có mấu gõ vào mặt thau tạo ra âm thanh cao, vang, lảnh lót. Tiu cảnh tham gia trong ban nhạc chầu vǎn, dàn bát âm, ban nhạc cúng lễ. Chũm choẹ còn gọi là não bạt, là nhạc khí tự thân vang của dân tộc Việt. Chũm chọe làm bằng hợp kim đồng thiếc, gồm hai chiếc giống nhau, hình tròn như chiếc đĩa, có núm để cầm. Khi đánh chũm chọe, hai tay cầm hai núm, dập hai mặt vào nhau, có lúc dập chéo xuống, chéo lên. Người sử dụng chũm chọe vừa đánh, vừa múa. Âm thanh chũm chọe to, vang, hơi chói tai. Chũm chọe được sử dụng trong dàn nhạc của cung đình, trong sân khấu tuồng, cải lương, trong đám rước sư tử và tham gia trong dàn nhạc dân tộc tổng hợp hoà tấu. Hai thức nhạc khí ấy được đặt tên theo âm thanh mà nó tạo ra. Ở đây, việc sử dụng tiu cảnh, chũm chọe vừa với tư cách là danh từ, vừa với tư cách là từ tượng thanh, kết hợp với biện pháp tách từ, đặt trong điệp ngữ “khi…khi…khi…” và nhịp 2/2/3gấp gáp, ồn ã đã góp phần dựng nên một khung cảnh cảnh hỗn loạn đầy những tạp âm. Câu thơ sau đối rất chỉnh với câu thơ trước, cũng điệp ngữ “giọng… giọng… giọng…” nhịp 2/2/3 và những từ mô phỏng âm thanh của con người “hì, hỉ, hi ha” đã góp phần làm tăng sự hỗn loạn của bức tranh lên đỉnh điểm. Tiếng người, tiếng vật, hỗn loạn, tạp nham… có còn đâu là chốn tu thành hành thanh tịnh, còn đâu chốn cửa Phật thiêng liêng? Với bọn sư không lo tu hành, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương có những sự khắc họa hiểm hóc, tài tình “Chẳng phải Ngô chẳng phải ta Đầu thì trọc lóc, áo không tà.” Bút pháp giễu nhại, biếm họa đã dựng nên bức chân dung các vị sư hổ mang một cách trớ trêu Chẳng phải giặc, cũng không phải quân mình. Một cách oái oăm, bà đặt sư vào một mối quan hệ đối lập sống còn xưa nay, Ngô – ta quần thù – đất nước, và cười khẩy khi khám phá ra những nét cá biệt, chẳng hiểu là Ngô hay ta của sư đầu trọc – thì chẳng phải Ngô rồi, mà áo truyền thống của ta là áo có tà, áo sư có tà đâu? Việc đẩy đối tượng châm biếm vào một vị thế lai căng, chông chênh ở giữa giống như một cái cười tinh quái. Ví với giặc, dù không phải là giặc, thì vẫn là một sự sỉ nhục. Mà bảo sư không phải dân mình, cũng lại là một sự sỉ nhục khác. Thậm chí, cái căm ghét của nữ sĩ họ Hồ có khi bật lên thành tiếng văng tục “Đầu sư há phải gì… bà cốt Bá ngọ con ong bé cái nhầm”. Ở đây, cũng phải thấy rõ rằng, Hồ Xuân Hương không hề đả kích Phật giáo, không hề đặt mình ở phía đối lập với tôn giáo. Nhưng Phật giáo thời kì này, cùng với sự biến động, nhiễu loạn của xã hội, cũng đã xuất hiện những phần tử xấu, bôi nhọ hình ảnh thanh tịnh của chốn cửa thiền. Ngòi bút của nữ sĩ hướng tới châm chích, đả kích các đối tượng ấy, cũng là một cách đòi lại sự trong sạch cho chốn chân tu. Lí do cao hơn cả, như đã nói ở trên, đó là bởi cái tôi khao khát sống của Hồ Xuân Hương không cho phép bà khoanh tay làm ngơ trước những kẻ rời bỏ cuộc sống, trốn tránh cuộc sống, mượn danh thanh bạch của chốn chân tu để làm trò đồi bại, bỉ ổi, nên đã khiến hồn thơ sắc bén, cá tính của bà nảy sinh những vần thơ châm biếm rấu sâu cay như thế. Ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương luôn thể hiện một cái tôi mạnh mẽ, bản lĩnh. Sự khẳng định ấy thể hiện trong việc nhận thức giá trị bản thân, khẳng định giá trị bản thân, thể hiện trong cách nhìn của bà về các thói hư tật xấu trong đời sống, và còn thể hiện ở lòng tự tôn dân tộc. Trong bài Đề đền Sầm Nghi Đống, thông qua việc châm biếm, đả kích một tên tướng giặc bại trận, cái tôi Hồ Xuân Hương đã được bộc lộ rất mạnh mẽ “Ghé mắt trông lên thấy bảng treo Kìa đền thái thú đứng cheo leo Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?” Đền Thái thú ở đây chỉ đền Thái thú Sầm Nghi Đống. Họ Sầm là tướng của Tôn Sĩ Nghị cầm đầu một đạo quân nhà Thanh sang xâm lược ta năm Kỉ Dậu 1789. Khi bị vua Quang Trung tấn công, quân Thanh thua chạy, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử. Sau này Hoa Kiều lập đền thờ Sầm Nghi Đống trên gò Đống Đa – Hà Nội. Dù ở bất cứ ngôi đền nào, thì thái độ của người ghé thăm thường là sự tôn kính. Thế nhưng ở đây, thái độ Hồ Xuân Hương thì hoàn toàn khác hắn. Đầu tiền là cái “ghé mắt”, ghét mắt – một cái nhìn nửa vời, không chủ ý, một cái nhìn vô tình thấy, đồng thời trong đó còn hàm chứa sự tự cao, và cả sự khinh khi với kẻ đối diện. Ở nơi thờ tự tôn nghiêm, ấy vậy mà thơ nữ sĩ họ Hồ lại có chỉ từ “kìa”, đứng tách biệt ra khỏi với câu thơ bằng nhịp 1/3/3 – đó là cái chỉ trỏ, có hàm ý coi thường. Như vậy, tư thế của Hồ Xuân Hương ở đây là một tư thế hiên ngang, ngạo nghễ, có phần ngang tàng. Mà quả thật như vậy, nàng đã không ngại ngùng khẳng định cái tôi của mình “Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?” Nàng đã không ngại ngần khẳng định khí phách của mình, nếu làm nam nhi, nàng còn có thể làm nhiều hơn thế. Cách sử dụng cụm “sự anh hùng” cũng đầy tính châm biếm, mỉa mai. Người anh hùng chân chính làm nên “sự nghiệp anh hùng”, nó to lớn, đồ sộ, khác hẳn với “sự anh hùng”, nghe nhẹ hều, mà có bề gì đấy như giả dối, như một dạng anh hùng rơm. Đã “sự anh hùng”, lại còn “há bấy nhiêu”, câu hỏi tu từ kết bài đầy tính thách thức, đầy chất mỉa mai. Ở đây ta còn thấy xuất hiện vẻ đẹp của lòng tự tôn dân tộc, qua việc sỉ nhục, khinh bỉ một tên giặc ngoại xâm bại trận. Tiếng nói của Hồ Xuân Hương là tiếng nói của cái tôi khao khát cuộc sống, của cái tôi cá nhân ngang tàng, ngạo nghễ, sẵn sàng khẳng định bản thân. Đúng, nhưng tiếng nói ấy còn có lục vượt ra khỏi khuôn khổ của cái tôi để trở thành tiếng nói của cái ta – tiếng nói chung cho thân phận người phụ nữ của thời đại. Bên cạnh những tiếng kêu than đau đớn cho số phận con người, thì Hồ Xuân Hương còn góp tiếng nói mạnh mẽ để đấu tranh, đòi quyền sống cho người phụ nữ bằng ngòi bút trào phúng của mình. Nàng đã lên tiếng bênh vực cho một cô gái trót lâm vào cảnh “Không chồng mà chửa” “Cả nể cho nên hóa dở dang, Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc Phận liễu sao đà nảy nét ngang. Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? Mảnh tình một khối thiếp xin mang. Quản bao miệng thế lời chênh lệch, Không có, nhưng mà có, mới ngoan!” Không chồng mà chửa Bài thơ giống như một lời tuyên ngôn bảo vệ hạnh phúc của người phụ nữ, đồng thời còn là một tiếng lòng đồng điệu, bày tỏ hết tâm tình của người con gái yêu bằng cả trái tim, dâng hiến tất cả, để rồi bị phụ tình. Hồ Xuân Hương đã rất mạnh mẽ bảo vệ người phụ nữ ấy “Quản bao miệng thế lời chênh lệch/Không có, nhưng mà có, mới ngoan”. Ấy là cái ý tứ mượn từ ca dao “Không chồng mà chửa mới ngoan/Có chồng mà chửa thế gian chuyện thường”. Tuy vậy, thấp thoáng đâu đó trong bài thơ còn có cái cười nhẹ, một cái cười chê trách. Không phải là ngẫu nhiên mà bài thơ xuất hiện những câu hỏi “chàng có biết chăng chàng”, “chàng nhớ chửa” . Đó là những lời dò hỏi tâm tình, đó là lời nhắc nhớ, mà đó cũng là lời oán trách. Một cái cười nhẹ mỉa mai oán trách của nữ sĩ họ Hồ. Chàng quân tử kia ơi, chàng nam nhi kia ơi, sao chàng có gan làm, mà không có gan chịu, sao chàng dám yêu, mà không dám nhận trách nhiệm, sao chàng nỡ bỏ người con gái dành tất cả cuộc đời cho chàng? Thế thì chàng còn đáng mặt nam nhi không, thế thì chàng còn mặt mũi nào mà sống trong trời đất này nữa? Cái cười mỉm ấy của Hồ Xuân Hương, hiền, nhưng chua xót, nhẹ nhàng mà thấm thía. Các lễ giáo phong kiến cùng với tư tưởng trọng nam khinh nữ và chế độ đa thê đã mang lại cho người phụ nữ biết bao cay đắng, tủi nhục. Sinh thời, Hồ Xuân Hương cũng là nạn nhân của việc làm lẽ, cũng chịu bao cay đắng, tủi hờn, đến nỗi phải thốt lên “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Bên cạnh tiếng chửi, cũng có cả những tiếng cười cợt, như bài “Khóc tổng cóc” “Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi! Thiếp bén duyên chàng có thế thôi. Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi” Tiếng cười nảy sinh từ phép chơi chữ tài tình của nữ sĩ họ Hồ, lợi dụng hiện tượng đồng âm của từ, sử dụng sự tương đồng trong các phép ẩn dụ để mang cả họ nhà cóc vào bài thơ chàng, cóc, bén, nòng nọc, chuộc. Bài thơ khóc chồng, sao lại vui vẻ thế, sao lại mang cả “họ nhà chồng” vào chế giễu như thế, có phải nữ sĩ quá tàn nhẫn không? Có thuyết cho rằng Hồ Xuân Hương làm bài “Khóc tổng Cóc” không phải do tổng Cóc chết mà là sau khi bị người vợ cả ngăn cản, chia rẽ. Vì thế Hồ Xuân Hương mới đưa tên cả họ hàng nhà Cóc vào bài thơ chế giễu. Như vậy đấy, ngay trong tình cảnh đáng thương, hẩm hiu của mình nữ sĩ họ Hồ vẫn có những dòng thơ cười cợt, châm biếm sâu cay. Chẳng hiểu tổng Cóc đọc những vẫn thơ này sẽ cảm thấy thế nào, nhưng người đọc thì thấy khâm phục một tài năng Hồ Xuân Hương, một tấm lòng ham sống của Hồ Xuân Hương. Vợ cả ngăn cản, chia rẽ, không làm gì được, nàng xem như chồng đã chết, lại còn làm cả một bài thơ khóc chồng, nhưng khóc đâu chẳng thấy, chỉ thấy cười cợt, giễu mỉa. Trong hoàn cảnh đáng thương của chính mình mà vẫn có thể cười cợt, bông lơn, đó cũng chính là khí phách “nín đi kẻo thẹn với non sông” của Hồ Xuân Hương vậy. Trong các loại trào phúng, thì yếu tố cái hài là yếu tố nhẹ nhàng nhất, nó chỉ là một cái cười nhẹ nhàng, cho vui, cho khuây khỏa, nó là cái cười không làm người ta mích lòng, cũng không phải để đả kích, chiến đấu, hay hạ bệ ai cả. Với những đề tài về người phụ nữ, ngòi bút trào phúng Hồ Xuân Hương cũng chọn cái hài hước nhẹ nhàng ấy làm công cụ bày tỏ, tiêu biểu là qua nhóm bài thơ bỡn người phụ nữ khóc chồng Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì Thương chồng nên nỗi khóc tì ti Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo Cay đắng chàng ơi vị quế chi Thạch nhũ, trần bì sao để lại Quy thân, liên nhục tẩm mang đi Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ Sinh ký chàng ơi, tử đắc quy. Bỡn bà lang khóc chồng Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng Nín đi kẻo thẹn với non sông. Ai về nhắn nhủ đàn em bé, Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung. Dỗ người đàn bà khóc chồng Cả hai bài thơ đều mở đầu bằng cụm “văng vẳng tai nghe tiếng khóc”. Rõ ràng, trước nỗi bất hạnh của người phụ nữ, trước nỗi đau của người góa phụ, Hồ Xuân Hương có sự đồng cảm sâu sắc. Nhưng tại sao ở đây lại có sự bỡn cợt? Trước hết, cần điểm lại bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Xã hội phong kiến là xã hội mang nặng tư tưởng Nho giáo, mà người phụ nữ bị kìm cặp trong tam tòng, tứ đức “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Người phụ nữ, nếu chồng chết, phải thủ tiết thờ chồng. Và cái bi kịch của con người nảy sinh ở chỗ ấy Nếu người góa phụ hẵng còn trẻ, tuổi xanh hẵng còn, chẳng lẽ phải hoài phí tuổi xanh để thờ một người đã chết? Việc tự nguyện, hay không tự nguyện, là lựa chọn của mỗi người, nhưng ta thấy rằng, quan niệm này đã gây ra bi kịch cho không ít phụ nữ. Tiếng khóc ở đây, có lẽ khóc vì thương xót chồng cũng một phần, nhưng phần nhiều là khóc cho thân phận của mình, cho số phận của chính mình. Đau đớn, tủi thân, thì phải khóc. Nhưng có lẽ, khóc, là cam chịu, là đớn hèn, là chịu khuất phục số phận. Phải chăng đó là lí do Hồ Xuân Hương, một cái tôi ngang tàn, không chịu khuất phục cất lên tiếng nói cười cợt? Hẳn là vậy, hơn nữa, Hồ Xuân Hương còn khuyên nhủ họ “Nín đi kẻo thẹn với non sông”. Cái khí thế mới ngang tàn, ngạo nghễ làm sao? Đương thời cũng có Nguyễn Công Trứ “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. So với cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ, cái khí phách nữ nhi của Hồ Xuân Hương cũng không thua kém gì, thậm chí có phần đặc biệt hơn, đặt trong bối cảnh xã hội trọng nam khinh nữ. Cái tài tình của Hồ Xuân Hương còn thể hiện ở chỗ, bút pháp trào phúng của bà không chỉ hướng đến con người và các hiện tượng cụ thể trong đời sống, mà ngay cả những hiện tượng siêu nhiên siêu hình, cũng trở thành đối tượng để bà cười cợt, trêu đùa “Khen thay con tạo khéo khôn phàm” Hang Thánh Hóa “Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc” Hang Cắc Cớ “Rõ khéo trời già đến dở dom.” Động Hương Tích Thiên nhiên tạo hóa trong mắt bà cũng là một con người bình thường để bỡn cợt, cũng khôn phàm, thậm chí ngang hàng để bà cười cợt “khen thay”, có khi thì như một người bạn để bà mắng yêu, cười mát mẻ, gọi là “trời già”, gọi là “dở dom”. Cái chơi chữ “tài xuyên tạc” trong bài “Hang Cắc Cớ” bà sử dụng cũng rất tài tình. Xuyên, tạc, đó là những hành động của người thợ chạm khắc, rất hợp với ngữ cảnh “khen ai đẽo đá”. Thế mà, “xuyên tạc”, lại là hành động bóp méo lời nói của người khác, là một hành động không hay. Cái trêu ngươi của Hồ Xuân Hương là ở chỗ đấy. Cười cợt cả tạo hóa, tự nâng mình lên ngang tầm vũ trụ, đó là biểu hiện đầy ấn tượng của cái tôi cá nhân Hồ Xuân Hương. Đồng thời, nó cũng là một biểu hiện cho một tính cách phóng khoáng, hào sảng, khát khao một cuộc sống tự do, tự tại. Tóm lại, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương hướng đến đủ mọi đối tượng, đủ thói hư tật xấu trong xã hội, đồng thời cũng rất đa dạng, đa giọng điệu, đa bút pháp. Nghệ thuật trào phúng chính là vũ khí đắc lực nhất của văn học, biến văn học trở thành công cụ cải tạo xã hội, đấu tranh với những điều xấu xa, đồi bại trong xã hội để bảo vệ lẽ phải, công lý, đòi quyền sống cho con người. Tiếng cười trào phúng của Hồ Xuân Hương, thông qua yếu tố cái tục, là thứ “khí giới vừa thanh cao vừa đắc lực mà chúng ta có, để tố cáo vạch trần một xã hội xấu xa, giả dối, làm người đọc phong phú hơn, trong sạch hơn” Thạch Lam. C. Ngôn ngữ trào phúng Hồ Xuân Hương. Để tạo nên hiệu quả trào phúng trong các tác phẩm, nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện vào loại bậc thầy của Hồ Xuân Hương là một yếu tố quan trọng không thể thiếu. Xứng đáng với danh hiệu “Bà chúa thơ Nôm”, Hồ Xuân Hương đã biết vận dụng ngôn ngữ bình dân một cách tài tình và điêu luyện, từng từ, từng chữ sử dụng đều đắt giá và có hiệu quả nghệ thuật cao. Trước hết phải kể đến việc bà sử dụng thể thơ trong các sáng tác của mình. Trong thơ Hồ Xuân Hương, thể thất ngôn bát cú hay tuyệt cú của Đường luật của Trung Quốc đã được Việt hóa để trở thành những thể thơ của nhân dân quần chúng. Biểu hiện của sự việt hóa đó như sau Thứ nhất, lời thơ như lời nói cửa miệng, không có vẻ gì là thông thái. Câu thơ đầy tính khẩu ngữ với các lời vẫy gọi ơi, hỡi, với cách gọi “bọn”, “lũ”, thậm chí cả những lời văng tục “bá ngọ…”. Trên thực tế, có những bài thơ như nhóm bài thơ Mắng học trò dốt là những bài thơ ứng khẩu, lời nói thành thơ, mà thơ như lời nói. Thứ hai, không sử dụng điển tích điển cố Trung Quốc hay từ Hán Việt, việc sử dụng từ Hán Việt nếu có, là để mỉa mai. Ta thấy rất rõ điều này trong bài “Thiếu nữ ngủ ngày”, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã hạ hai chữ “quân tử” rất đắt ở cuối bài thơ, tương phản và bị hạ bệ một cách ê chề trong hành động lấp ló, không minh bạch “đi thì dở, ở không xong”. Thứ ba, thơ Hồ Xuân Hương đã thoát khỏi đặc tính ước lệ khắt khe của thể thơ, mỗi bài của XH là một bức tranh, một câu chuyện, một lát cắt cuộc sống, sự vận động trong thơ rất sống động, mạnh mẽ, phải cẩm nhận bằng tất cả các giác quan. Thứ tư, thơ Hồ Xuân Hương Mang tính chất dân gian ở nét trào phúng, đả kích, phù hợp với nếp nghĩ truyền thống vừa vui vừa hóm, vừa đùa bỡn, cười vợt, vừa nghiêm trang, vừa nói chơi vừa nói thật… Bên cạnh việc sử dụng thể thơ độc đáo, nhịp thơ được ứng dụng uyển chuyển, đa dạng cũng làm cho thơ trào phúng Hồ Xuân Hương trở nên hấp dẫn, sức hấp dẫn trước tiên là ở sự đa giọng điệu – Thơ tuyệt cú thường là nhịp 4/3 hoặc 2/2/3. Thơ Hồ Xuân Hương nhịp rất uyển chuyển, nhiều câu đã phá vỡ khuôn nhịp cũ mà có lối nghỉ tùy thuộc vào cảnh tình, cũng như dụng ý nghệ thuật. Nhịp thơ cho ta hình dung sự chỉ trỏ một cách cụ thể. Nhịp 2/5 “Chiếc bách/buồn về phận nổi nênh” è cảnh cô đơn, bé nhỏ, cam chịu” Tự tình III Nhịp 2/3/2“Nỗi niềm/chàng có biết/chăng chàng” è sự tức tưởi, lời than thân trách phận. Sự dở dang Nhịp 1/3/3 “Kìa/cái diều ai/ nó lộn lèo” Quán Khánh Cùng với việc sử dụng thể thơ, nhịp thơ, cách xử lí chất liệu ngôn từ của Hồ Xuân Hương cũng vào loại bậc thầy. Thứ nhất, từ ngữ bà sử dụng rất hiểm hóc, hiểm hóc một cách tự nhiên, không mài dũa, trau chuốt. Đó là công cụ đánh bại kẻ thù , đánh mạnh, đánh lắt léo, đau mà đối phương không dám kêu, chỉ dám ngậm miệng căm tức. Như bài Mắng học trò dốt II, là một bài thơ ứng khẩu, chỉ cần một chữ “phường lòi tói” thôi là đã cho thấy hết bản chất ngu dốc mà thích khoe khoang của bọn học trò dốt, đồng thời cho thấy cái khinh miệt của nữ nhà thơ đến hạng người này. Cách sử dụng ngôn từ ở đây rất tự nhiên, như câu cửa miệng, mà đắt giả, hiểm hóc vô cùng. Thứ hai, Từ ngữ hết sức gợi tả trăng thu thì “đỏ lòm lom”, nước hay gió thì “vỗ phập phòm”, “rơi lõm bõm” . Bà thường xuyên sử dụng từ láy, sử dụng rất tài tình. Không thể không kể đến lối nõi ỡm ờ, nói lái như trong các truyện cười của dân gian, khi cần có thể văng tục “Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo” Chùa Quán Sứ “Đầu sư há phải gì… bà cốt Bá ngọ con ong bé cái nhầm. Sư bị ong châm “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” Làm lẽ Khả năng mô phỏng âm thanh trong thơ Hồ Xuân Hương cũng rất tài tình “Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông Nó bảo nhau rằng ấy ái uông.” Mắng học trò “Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha” Sư hổ mang Một điểm quan trọng trong việc sử dụng ngôn từ của Hồ Xuân Hương đó là hiện tượng xưng tên trong tác phẩm “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi” Mời trầu Việc xưng tên trong tác phẩm chính là biểu hiện rõ ràng nhất của việc thức tỉnh cái tôi cá nhân, và thoát li dần dần khỏi thi pháp trung đại. Đặc trưng thi pháp trung đại là phi ngã, coi trọng cái ta, cái tôi cá nhân không được nhắc đến, chứ đừng nói xưng tên trong bài thơ. Sự sụp đổ của chế độ phong kiến, cùng với sự biến đối tư tưởng xã hội đã tạo điều kiện cho cái tôi thức tỉnh, và thời kì này cũng không ít nhà thơ đã bắt đầu đưa tên vào tác phẩm. Chúng ta có Nguyễn Du “Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”, hay Nguyễn Công Trứ “Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng”. Là một người phụ nữ, vốn bị coi rẻ trong xã hội, đặt ngang với hiện tượng xưng tên của các nam thi sĩ trên, vị thế của Hồ Xuân Hương càng trở nên đặc biệt. Còn một điểm cần lưu ý nữa Nếu các nhà thơ nam kia chỉ xưng tên hiệu, thì Xuân Hương đã xưng tên thật, cách khẳng định còn có phần mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Như vậy, việc xưng tên trong thơ Hồ Xuân Hương chính là biểu hiện của một cái tôi ngang tàn, mãnh liệt Hồ Xuân Hương. Nhưng không chỉ có thế, cùng với sự xuất hiện của cái tôi Hồ Xuân Hương, thì “thân em” cũng chính thức bước từ ca dao dân ca vào địa hạt của văn học viết. Có lẽ Hồ Xuân Hương là nữ sĩ đầu tiên đặt vấn đề về người phụ nữ ở góc nhìn thứ nhất, là một người phụ nữ, nói về một người phụ nữ, và có lẽ, ở Hồ Xuân Hương, lần đầu tiên “thân em” tội nghiệp của ca dao bước vào địa hạt của văn chương bác học, vẫn giữ nguyên những cảm xúc, nỗi niềm từ ca dao, nhưng đặt trong một lớp vỏ nghệ thuật điêu luyện hơn, sắc sảo hơn. Bên cạnh đó, ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày, khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ, cũng được Hồ Xuân Hương sử dụng linh hoạt đến “ghê người” từ dùng của Giáo sư Lê Trí Viễn.
thơ trào phúng hồ xuân hương